TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CỦ CHI, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
BẢN ÁN 36/2023/KDTM-ST NGÀY 25/08/2023 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG CHUYỂN NHƯỢNG QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT
Trong ngày 25 tháng 8 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Củ Chi xét xử sơ thẩm công khai vụ án kinh doanh thương mại thụ lý số: 02/2023/TLST-KDTM ngày 18 tháng 01 năm 2023 về “Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 325/2023/QĐXXST-KDTM ngày 06 tháng 7 năm 2023 và Quyết định hoãn phiên tòa số 264/2023/QĐST-KDTM ngày 09 tháng 8 năm 2023 giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Công ty TNHH Một thành viên T bao bì Cuộc sống mới.
Địa chỉ: Số F T, xã P, huyện C, Thành phố Hồ Chí Minh.
Người đại diện theo pháp luật: Bà Đỗ Thị Thúy N, sinh năm: 1970. Chức vụ: Giám đốc.
Người đại diện theo ủy quyền:
- Ông Trương Quang H, sinh năm: 1997 (Có mặt);
- Bà Phạm Lê M, sinh năm: 1998 (Có mặt).
Địa chỉ: Số F T, xã P, huyện C, Thành phố Hồ Chí Minh.
(Theo Giấy ủy quyền số 01/UQ-CSM ngày 29/12/2022 của Công ty TNHH Một thành viên T bao bì Cuộc Sống mới).
2. Bị đơn: Công ty Trách nhiệm hữu hạn T.
Địa chỉ: Ấp C, xã P, huyện C, Thành phố Hồ Chí Minh.
Người đại diện theo pháp luật: Ông Kim Jin K, sinh năm: 1947. Chức vụ: Tổng Giám đốc.
Chỗ ở hiện tại: Ấp C, xã P, huyện C, Thành phố Hồ Chí Minh.
NỘI DUNG VỤ ÁN
* Theo đơn khởi kiện nộp ngày 29/12/2022, lời khai, biên bản phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải và tại phiên tòa, nguyên đơn là Công ty TNHH Một thành viên T bao bì Cuộc Sống mới (sau đây gọi tắt là Công ty T mới)-có người đại diện theo ủy quyền là ông Trương Quang H và bà Phạm Lê M trình bày:
Vào ngày 27/08/2018, Công ty TNHH Một thành viên T mới và Công ty TNHH T (sau đây gọi tắt là Công ty T) đã ký Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất (có tài sản gắn liền với đất) số 036652/HĐ-CNQSDĐ tại Văn phòng C (nay là Văn phòng C1), số công chứng: 036652, quyển số 03TP/CC-SCC/HĐGD, đối tượng chuyển nhượng là quyền sử dụng đất có diện tích 12.459m2, thuộc thửa đất số 133, tờ bản đồ số 33 theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số CM 162458, số vào sổ cấp GCN CT75368, ngày 20/8/2018 do Sở Tài nguyên và Môi trường Thành phố H cấp cho Công ty T, giá chuyển nhượng là 25.000.000.000đ (Hai mươi lăm tỷ đồng).
Trước khi ký Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất nêu trên, vào ngày 21/11/2017 Công ty T mới đã đặt cọc cho Công ty T số tiền 7.000.000.000đ (Bảy tỷ đồng), ngày 17/5/2018, Công ty T mới thanh toán thêm cho Công ty T số tiền 17.500.000.000đ (Mười bảy tỷ năm trăm triệu đồng), tổng cộng số tiền Công ty T mới đà đặt cọc và thanh toán cho Công ty T là 24.500.000.000đ (Hai mươi bốn tỷ năm trăm triệu đồng), việc thanh toán được các bên xác nhận tại Khoản 2 Điều 2 của Hợp đồng và Công ty T mới đã nhận bàn giao tài sản cùng ngày ký Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất là ngày 27/8/2018; số tiền còn lại là 500.000.000đ (Năm trăm triệu đồng) Công ty T mới sẽ thanh toán cho Công ty T theo thỏa thuận giữa hai bên. Tại Điều 223 của Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định về xác lập quyền sở hữu theo hợp đồng thì: “Người được giao tài sản thông qua hợp đồng mua bán, tặng cho, trao đổi, cho vay hoặc hợp đồng chuyển quyền sở hữu khác theo quy định của pháp luật thì có quyền sở hữu tài sản đó”. Như vậy có đủ cơ sở để xác định Công ty T mới là chủ sở hữu hợp pháp đối với quyền sử dụng thửa đất trên. Tuy nhiên hiện nay Công ty T mới không thể thực hiện được thủ tục xin cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với quyền sử dụng đất đã nhận chuyển nhượng nêu trên, nguyên nhân do Công ty T không xuất hóa đơn giá trị gia tăng và không kê khai, không nộp thuế thu nhập doanh nghiệp đối với giao dịch chuyển nhượng thửa đất này. Do đó cơ quan thuế xác định rằng Công ty T chưa hoàn thành nghĩa vụ tài chính nên không thể tiến hành cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hay cập nhật biến động thông tin chủ sử dụng đất cho Công ty T mới, Công ty T mới đã nỗ lực liên hệ, đề nghị Công ty T thực hiện đúng nghĩa vụ theo quy định trong Hợp đồng nhưng người đại diện theo pháp luật và kế toán của Công ty T cố tình né tránh, trì hoãn thực hiện nghĩa vụ.
Tại Khoản 1 Điều 4 của Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất (có tài sản gắn liền với đất) ngày 27/8/2018 có quy định: “Bên B (Công ty T mới) có nghĩa vụ thực hiện thủ tục đăng ký quyền sử dụng đất, quyền sở hữu tài sản gắn liền trên đất tại cơ quan có thẩm quyền. Bên A (Công ty T) cũng có nghĩa vụ với Bên B (Công ty T mới) hoàn thành các thủ tục đăng ký đó”. Theo đó Công ty T có nghĩa vụ thực hiện tất cả các thủ tục cần thiết để chuyển giao quyền sở hữu, quyền sử dụng thửa đất số 133 cho Công ty T mới. Tuy nhiên Công ty T đã không thực hiện đúng quy định này của Hợp đồng (không xuất hóa đơn giá trị gia tăng và không kê khai, không nộp thuế thu nhập doanh nghiệp đối với giao dịch chuyển nhượng, dẫn đến cơ quan chức năng từ chối cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hay cập nhật biến động thông tin cho Công ty T mới). Hành vi trên của Công ty S là vi phạm nghĩa vụ Hợp đồng, làm ảnh hưởng đến quyền được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của Công ty T mới. Tại Điều 352 của Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định về trách nhiệm tiếp tục thực hiện nghĩa vụ như sau: “Khi bên có nghĩa vụ thực hiện không đúng nghĩa vụ của mình thì bên có quyền được yêu cầu bên có nghĩa vụ tiếp tục thực hiện nghĩa vụ”, do đó Công ty T mới có quyền yêu cầu Công ty T thực hiện các nghĩa vụ cần thiết (xuất hóa đơn giá trị gia tăng và kê khai, nộp thuế thu nhập doanh nghiệp đối với giao dịch chuyển nhượng) để Công ty T mới có thể hoàn thiện thủ tục đăng ký biến động đất đai đối với thửa đất đã nhận chuyển nhượng. Đối với số tiền 500.000.000đ (Năm trăm triệu đồng) còn lại phải thanh toán tiếp cho Công ty T, Công ty T mới sẽ trả cho Công ty T ngay sau khi Công ty T mới được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hoặc cập nhật biến động thông tin trên Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
Nhận thấy Công ty T mới đã rất nhiều lần liên hệ, gửi yêu cầu đề nghị Công ty T thực hiện nghĩa vụ nhưng Công ty T vẫn chây ì, việc Công ty T không thực hiện nghĩa vụ theo Hợp đồng chuyển nhượng (không xuất hóa đơn giá trị gia tăng, không kê khai nộp thuế thu nhập từ giao dịch chuyển nhượng) là hành vi vi phạm pháp luật, vi phạm thỏa thuận giữa các bên, ảnh hưởng nghiêm trọng đến quyền và lợi ích hợp pháp của Công ty T mới, do vậy Công ty T mới khởi kiện Công ty T đến Tòa án nhân dân huyện Củ Chi với các yêu cầu khởi kiện sau:
1. Buộc Công ty T tiếp tục thực hiện Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất (có tài sản gắn liền với đất) số 036652/HĐ-CNQSDĐ, ngày 27/8/2018, công chứng tại Văn phòng C, số công chứng 036652, quyển số 03 TP/CC-SCC/HĐGD, cụ thể là Công ty T phải xuất hóa đơn giá trị gia tăng cho Công ty T mới trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày Bản án có hiệu lực pháp luật.
2. Hết thời hạn 15 ngày kể từ ngày Bản án có hiệu lực pháp luật mà Công ty T không thực hiện việc xuất hóa đơn giá trị gia tăng hay nộp thuế thu nhập doanh nghiệp thì Công ty T mới được quyền yêu cầu cơ quan có thẩm quyền cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mới hoặc cập nhật đăng ký biến động sang tên Công ty Cuộc sống mới đối với quyền sử dụng đất có diện tích 12.459m2, thuộc thửa đất số 133, tờ bản đồ số 33 theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số CM 162458, số vào sổ cấp GCN CT75368, ngày 20/8/2018 do Sở Tài nguyên và Môi trường Thành phố H cấp cho Công ty T.
3. Công ty T mới sẽ tiếp tục thanh toán số tiền còn lại là 500.000.000đ (Năm trăm triệu đồng) cho Công ty T theo Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất (có tài sản gắn liền với đất) số 036652/HĐ-CNQSDĐ, ngày 27/8/2018, công chứng tại Văn phòng C, số công chứng 036652, quyển số 03 TP/CC-SCC/HĐGD.
Tại phiên tòa, Công ty T mới vẫn giữ nguyên các yêu cầu khởi kiện, đồng thời Công ty T mới vẫn đồng ý nộp thay số tiền thuế chi phí, lệ phí và các khoản phí khác (nếu có) cho Công ty T nếu cơ quan Nhà nước có thẩm quyền đồng ý.
* Bị đơn là Công ty TNHH T vắng mặt.
* Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Củ Chi:
- Qua kiểm sát việc giải quyết vụ án từ khi thụ lý đến trước khi xét xử, Thẩm phán và Hội đồng xét xử đã thực hiện đúng nội dung quy định của Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015:
+ Vụ án được thụ lý đúng thẩm quyền;
+ Tòa án cấp, tống đạt, thông báo các văn bản tố tụng đúng quy định; thời hạn gửi Thông báo thụ lý cho Viện kiểm sát cùng cấp đúng quy định;
+ Thời hạn gửi Quyết định đưa vụ án ra xét xử và thời hạn gửi hồ sơ đúng quy định;
+ Thời hạn chuẩn bị xét xử chưa đúng quy định tại Điểm b Khoản 1 Điều 203 của Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015, tuy nhiên vi phạm này không làm ảnh hưởng đến bản chất của vụ án;
+ Tại phiên tòa, Thẩm phán và Hội đồng xét xử đà tiến hành đúng thời gian, địa điểm được ghi trong quyết định đưa vụ án ra xét xử, thành phần Hội đồng xét xử đúng quy định, việc tham gia hỏi tại phiên tòa đúng quy định.
+ Đối với các đương sự: Từ khi thụ lý vụ kiện cũng như tại phiên tòa hôm nay, các đương sự đã thực hiện đúng các quy định tại Điều 68, Điều 70 và Điều 234 của Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015;
- Về nội dung, căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và căn cứ vào kết quả tranh tụng, tranh luận tại phiên tòa, Viện kiểm sát nhân dân huyện Củ Chi đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận toàn bộ yêu cầu của Công ty T mới.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh tụng, kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về quan hệ pháp luật tranh chấp và thẩm quyền giải quyết:
Theo nội dung đơn khởi kiện nộp ngày 29/12/2022 và tại phiên tòa, nguyên đơn là Công ty T mới yêu cầu bị đơn là Công ty T tiếp tục thực hiện Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất (có tài sản gắn liền với đất) số 036652/HĐ-CNQSDĐ, ngày 27/8/2018, công chứng tại Văn phòng C, số công chứng 036652, quyển số 03 TP/CC-SCC/HĐGD, việc chuyển nhượng quyền sử dụng đất nhằm mục đích sản xuất kinh doanh nên đây là quan hệ pháp luật “Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất” phát sinh trong hoạt động kinh doanh, thương mại giữa các pháp nhân có đăng ký kinh doanh và đều có mục đích lợi nhuận được quy định tại Khoản 1 Điều 30 của Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015. Tài sản tranh chấp tọa lạc tại ấp C, xã P, huyện C, Thành phố Hồ Chí Minh nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Củ Chi theo quy định tại Điểm b Khoản 1 Điều 35 và Điểm c Khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015.
[2] Về thời hiệu khởi kiện:
Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất (có tài sản gắn liền với đất) số 036652/HĐ-CNQSDĐ được Công ty T mới và Công ty T ký kết với nhau vào ngày 27/8/2018, công chứng tại Văn phòng C, số công chứng 036652, quyển số 03 TP/CC-SCC/HĐGD, do bị đơn chưa thực hiện xuất hóa đơn giá trị gia tăng nên ngày 29/12/2022, nguyên đơn nộp đơn khởi kiện tại Tòa án nhân dân huyện Củ Chi, như vậy thời điểm nộp đơn khởi kiện của nguyên đơn vẫn còn thời hiệu khởi kiện theo quy định tại tại Điều 319 của Luật Thương mại năm 2005.
[3] Về thủ tục tố tụng:
Theo Công văn số 1015/ĐKKD-T6 ngày 18/02/2023 của Sở Kế hoạch và Đầu tư Thành phố H và Công văn số 5443/CTTPHCM-THTH ngày 06/5/2023 của Cục thuế Thành phố H về việc cung cấp thông tin doanh nghiệp của bị đơn là Công ty T theo xác minh của Tòa án nhân dân huyện Củ Chi thì: Công ty T có mà số thuế là 0301890451, cấp ngày 20/01/2000, đăng ký trụ sở chính tại địa chỉ ấp C, xã P, huyện C; người đại diện theo pháp luật của Công ty T là ông Kim Jin K có chỗ ở hiện tại là tại ấp C, xã P, huyện C, hiện Công ty Saigon Cap chưa thông báo giải thể.
Tòa án nhân dân huyện Củ Chi đã tống đạt hợp lệ Thông báo về việc thụ lý vụ án, Thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải, Quyết định đưa vụ án ra xét xử và Quyết định hoãn phiên toà cho Công ty T và người đại diện theo pháp luật của Công ty T nhưng tại phiên toà hôm nay, Công ty T vẫn vắng mặt không có lý do nên Hội đồng xét xử vẫn tiến hành phiên tòa theo quy định tại Điều 227 và Điều 228 của Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015.
[4] Về yêu cầu của nguyên đơn:
[4.1] Về hình thức:
Theo Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp Công ty T hữu hạn Một thành viên của Công ty T mới và Công ty T thì nhóm ngành nghề cả hai Công ty đăng ký doanh nghiệp đều không có ngành kinh doanh bất động sản. Tại Điểm a Khoản 3 Điều 167 của Luật Đất đai năm 2013 quy định “Hợp đồng chuyển nhượng, tặng cho, thế chấp, góp vốn bằng quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất phải được công chứng, hoặc chứng thực, trừ trường hợp kinh doanh bất động sản quy định tại điểm b, khoản này”, Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất (có tài sản gắn liền với đất) số 036652/HĐ-CNQSDĐ được ký kết ngày 27/82018 giữa 02 Công ty được tại Văn phòng C (nay là Văn phòng C1), số công chứng: 036652, quyển số 03TP/CC-SCC/HĐGD, như vậy về mặt hình thức của Hợp đồng cả hai Công ty đã thực hiện đúng quy định.
[4.2] Về nội dung:
Ngày 27/8/2018, Công ty T mới và Công ty T có ký Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất (có tài sản gắn liền với đất) số 036652/HĐ-CNQSDĐ tại Văn phòng C (nay là Văn phòng C1), số công chứng: 036652, quyển số 03TP/CC-SCC/HĐGD, đối tượng chuyển nhượng là quyền sử dụng đất có diện tích 12.459m2, thuộc thửa đất số 133, tờ bản đồ số 33 theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số CM 162458, số vào sổ cấp GCN CT75368, ngày 20/8/2018 do Sở Tài nguyên và Môi trường Thành phố H cấp cho Công ty T, giá chuyển nhượng là 25.000.000.000đ (Hai mươi lăm tỷ đồng). Trước khi ký hợp đồng, Công ty T mới đà chuyển khoản đặt cọc và thanh toán bằng ủy nhiệm chi cho Công ty T vào ngày 21/11/2017 là 7.000.000.000đ (Bảy tỷ đồng) và ngày 17/5/2018 là 17.500.000.000đ (Mười bảy tỷ năm trăm triệu đồng), tổng cộng số tiền Công ty T mới đã thanh toán cho Công ty T là 24.500.000.000đ (Hai mươi bốn tỷ năm trăm ngàn đồng), việc thanh toán được các bên xác nhận tại Khoản 2 Điều 2 của Hợp đồng và Công ty T mới đã nhận bàn giao tài sản cùng ngày ký Hợp đồng là ngày 27/8/2018, đây là những tình tiết, sự kiện không cần phải chứng minh theo quy định tại Điều 92 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015. Như vậy có cơ sở xác định Công ty T mới là chủ sở hữu hợp pháp của thửa đất số 133 quy định tại Điều 223 của Bộ luật Dân sự năm 2015 về xác lập quyền sở hữu theo hợp đồng: “Người được giao tài sản thông qua hợp đồng mua bán, tặng cho, trao đổi, cho vay hoặc hợp đồng chuyển quyền sở hữu khác theo quy định của pháp luật thì có quyền sở hữu tài sản đó”.
Xét sau khi đã thanh toán số tiền 24.500.000.000đ (Hai mươi bốn tỷ năm trăm triệu đồng) và nhận bàn giao tài sản, Công ty T mới không thể thực hiện các quyền của người sử dụng đất theo Điều 166 của Luật Đất đai năm 2013, trong đó có quyền “Được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản gắn liền với đất” vì lý do Công ty T chưa thực hiện xuất hóa đơn giá trị gia tăng, không kê khai, không nộp thuế thu nhập doanh nghiệp đối với giao dịch chuyển nhượng theo quy định, như vậy có căn cứ xác định Công ty T mới đã thực hiện xong nghĩa vụ nhưng quyền lợi chưa được đảm bảo, trong khi Công ty T đã nhận gần đủ số tiền chuyển nhượng, quyền lợi được bảo đảm nhưng chưa thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ, điều này làm ảnh hưởng đến quyền và lợi ích chính đáng của Công ty T mới.
Hội đồng xét xử xét theo các quy định tại Điều 14 của Thông tư số 64/2013/TT-BTC ngày 15/5/2013 của Bộ TI hướng dẫn thi hành Nghị định số 51/2010/NĐ-CP ngày 14/5/2010 của Chính phủ quy định về hóa đơn bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ (về lập hóa đơn) thì việc xuất hóa đơn giá trị gia tăng khi cung cấp hàng hóa, dịch vụ cho khách hàng thuộc nghĩa vụ của bên bán là Công ty T. Ngoài ra, Công ty T còn phải kê khai, quyết toán thuế thu nhập doanh nghiệp theo quy định tại các văn bản hướng dẫn về thuế thu nhập doanh nghiệp, do vậy khi Công ty T không thực hiện các nghĩa vụ nêu trên thì Công ty T mới không thể tiến hành lập thủ tục đăng ký quyền sở hữu tài sản nơi có thửa đất số 133 tọa lạc vì người đăng ký xác lập quyền sở hữu phải nộp lệ phí trước bạ theo quy định tại Nghị định số 140/2016/NĐ-CP ngày 10/10/2016 được sửa đổi, bổ sung theo Nghị định số 20/2019/NĐ-CP ngày 21/02/2019 của Chính phủ về lệ phí trước bạ.
Hội đồng xét xử ghi nhận việc Công ty T mới tự nguyện nộp thay cho Công ty T số tiền thuế, chi phí, lệ phí và các khoản phí khác (nếu có) có liên quan đến việc chuyển nhượng, việc đăng ký quyền sở hữu quyền sử dụng đất có diện tích 12.459m2, thuộc thửa đất số 133, tờ bản đồ số 33 theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số CM 162458, số vào sổ cấp GCN CT75368, ngày 20/8/2018 do Sở Tài nguyên và Môi trường Thành phố H cấp cho Công ty T nếu cơ quan Nhà nước có thẩm quyền đồng ý.
[4.3] Tại Bản đồ hiện trạng vị trí ngày 06/6/2023 và tại Biên bản xem xét, thẩm định tại chỗ ngày 31/3/2023, trên quyền sử dụng đất có diện tích 12.459m2 thuộc thửa đất số 133 hiện có các công trình kiến trúc sau:
Tính từ đường T nhìn vào:
- Cổng chính là cổng kéo sắt, bên trái cổng kéo sắt là nhà bảo vệ có kết cấu mái tole có la phông, tường gạch xây tô, nền gạch ceramic (hiện là nơi bảo vệ Công ty T mới đang trực), là hạng mục số (2) trên Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số CM 162458, số vào sổ cấp GCN CT75368, ngày 20/8/2018 do Sở Tài nguyên và Môi trường Thành phố H cấp cho Công ty TNHH T; bên phải cổng kéo sắt là nhà bảo vệ có kết cấu mái lợp tole có la phông, tường gạch xây tô, nền gạch ceramic;
- Khuôn viên bên trái cổng kéo sắt là nhà cảnh quan có kết cấu mái ngói, cột gỗ, nền gạch tàu;
- Bên phải cổng chính là công trình mái vòm, mái che tole, cột sắt, nền xi măng, hiện đang sử dụng để chứa hàng;
- 01 nhà văn phòng có kết cấu mái tole có la phông, tường gạch xây tô, nền gạch ceramic, là hạng mục số (1) trên Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số CM 162458, số vào sổ cấp GCN CT75368, ngày 20/8/2018 do Sở Tài nguyên và Môi trường Thành phố H cấp cho Công ty TNHH T;
- 01 nhà xưởng có kết cấu mái tole có la phông, tường gạch xây tô, nền xi măng, là hạng mục số (3) trên Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số CM 162458, số vào sổ cấp GCN CT75368, ngày 20/8/2018 do Sở Tài nguyên và Môi trường Thành phố H cấp cho Công ty TNHH T;
- Giữa nhà văn phòng hạng mục số (1) và nhà xưởng hạng mục số (3) là nhà xe có kết cấu mái tole, cột sắt, nền xi măng;
- Sát nhà xưởng hạng mục số (3) theo thứ tự là căn tin (nhà ăn công nhân) có kết cấu mái tole, cột sắt, nền xi măng; nhà vệ sinh có kết cấu mái tole có la phông, tường gạch xây tô, nền gạch ceramic; khu xử lý nước thải có kết cấu mái tole có la phông, tường gạch xây tô, nền gạch ceramic và kho hóa chất có kết cấu mái tole có la phông, tường gạch xây tô, nền gạch ceramic;
- Sân bóng đá hiện được xây dựng thành nhà xưởng (kho giấy) có kết cấu mái tole không có la phông, tường gạch xây tô, nền xi măng;
- 01 nhà xưởng hiện là kho nguyên vật liệu có kết cấu mái tole có la phông, tường gạch xây tô, nền xi măng là hạng mục số (6) trên Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số CM 162458, số vào sổ cấp GCN CT75368, ngày 20/8/2018 do Sở Tài nguyên và Môi trường Thành phố H cấp cho Công ty TNHH T;
- Giữa sân bóng đá hiện là nhà xưởng (kho giấy) và nhà xưởng hạng mục số (6) là lối đi có kết cấu mái tole, nền gạch vỉa hè;
- Hạng mục khu đất trống trên Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số CM 162458, số vào sổ cấp GCN CT75368, ngày 20/8/2018 do Sở Tài nguyên và Môi trường Thành phố H cấp cho Công ty TNHH T hiện là dãy nhà lưu trú dành cho công nhân có kết cấu mái lợp tole có la phông, tường gạch xây tô, nền gạch ceramic; kho chứa đồ có kết cấu mái tole, cột sắt, nền xi măng và nhà vệ sinh công nhân có kết cấu mái tole, tường gạch xây tô, nền gạch ceramic;
- Khuôn viên hai bên và phía sau khu đất là tường rào có kết cấu tường gạch bê tông xây tô, có rào kẽm gai phía trên.
[5] Về chi phí tố tụng:
Chi phí đo đạc, xem xét, thẩm định tại chỗ tổng cộng là 25.000.000đ (Hai mươi lăm triệu đồng) Công ty T mới tự nguyện chịu, không yêu cầu Công ty T hoàn trả nên Hội đồng xét xử không xét.
[6] Về ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Củ Chi:
Xét đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Củ Chi phát biểu ý kiến về thời hạn chuẩn bị xét xử vụ án vi phạm quy định tại Điểm b Khoản 1 Điều 203 của Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015 là đúng, Hội đồng xét xử nghiêm túc rút kinh nghiệm. Đối với đề nghị chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, qua các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, kết quả tranh tụng và tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử chấp nhận đề nghị này của đại diện Viện kiểm sát.
[7] Về nghĩa vụ chịu án phí kinh doanh thương mại sơ thẩm:
Căn cứ Điều 147 của Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015 và Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, bị đơn phải chịu án phí không có giá ngạch đối với việc Hội đồng xét xử công nhận Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất (có tài sản gắn liền với đất) giữa nguyên đơn và bị đơn và chịu án phí đối với số tiền 500.000.000đ (Năm trăm triệu đồng) được nhận từ nguyên đơn, đồng thời hoàn lại tiền tạm ứng án phí cho nguyên đơn.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
- Căn cứ vào Khoản 1 Điều 30, Điểm b Khoản 1 Điều 35 và Điểm c Khoản 1 Điều 39, Khoản 2 Điều 86, Điều 146, Điều 188, Điều 273 và Điều 280 của Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015;
- Căn cứ vào Điều 166, Điều 167 và Điều 174 của Luật Đất đai năm 2013;
- Căn cứ vào Điều 119, Điều 501 và Điều 502 của Bộ luật Dân sự năm 2015;
- Căn cứ vào Điều 6, Điều 7, Điều 26, Điều 30, Điều 31 và Điều 32 của Luật thi hành án dân sự năm 2008;
- Căn cứ vào Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí.
Tuyên xử:
1. Chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn là Công ty Trách nhiệm hữu hạn Một thành viên T bao bì Cuộc sống mới.
Công nhận giao dịch chuyển nhượng giữa Công ty Trách nhiệm hữu hạn Một thành viên T bao bì Cuộc sống mới và Công ty Trách nhiệm hữu hạn T thông qua Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất (có tài sản gắn liền với đất) số 036652/HĐ-CNQSDĐ, ngày 27/8/2018 tại Văn phòng C (nay là Văn phòng C1), số công chứng: 036652, quyển số 03TP/CC-SCC/HĐGD, đối tượng chuyển nhượng là quyền sử dụng đất có diện tích 12.459m2, thuộc thửa đất số 133, tờ bản đồ số 33, tọa lạc tại ấp C, xã P, huyện C, Thành phố Hồ Chí Minh theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số CM 162458, số vào sổ cấp GCN CT75368, ngày 20/8/2018 do Sở Tài nguyên và Môi trường Thành phố H cấp cho Công ty Trách nhiệm hữu hạn T. Trên quyền sử dụng đất có các công trình, kiến trúc đã liệt kê tại mục [4.3].
1.2. Buộc Công ty Trách nhiệm hữu hạn T phải tiếp tục thực hiện các nghĩa vụ theo Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất (có tài sản gắn liền với đất) số 036652/HĐ-CNQSDĐ, ngày 27/8/2018, cụ thể là xuất hóa đơn giá trị gia tăng và kê khai, nộp thuế thu nhập doanh nghiệp liên quan đến Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất nêu trên để Công ty Trách nhiệm hữu hạn Một thành viên T bao bì Cuộc sống mới đăng ký quyền sở hữu, quyền sử dụng hoặc cập nhật biến động thông tin đối với quyền sử dụng đất có diện tích 12.459m2, thuộc thửa đất số 133, tờ bản đồ số 33 theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số CM 162458, số vào sổ cấp GCN CT75368, ngày 20/8/2018 do Sở Tài nguyên và Môi trường Thành phố H cấp cho Công ty Trách nhiệm hữu hạn T. Thời hạn thực hiện các nghĩa vụ là 15 ngày kể từ ngày Bản án có hiệu lực pháp luật.
1.2. Hết thời hạn 15 ngày kể từ ngày Bản án có hiệu lực pháp luật mà Công ty TNHH T không thực hiện việc xuất hóa đơn giá trị gia tăng và kê khai, nộp thuế thu nhập doanh nghiệp thì Công ty Trách nhiệm hữu hạn Một thành viên T bao bì Cuộc sống mới được quyền liên hệ với cơ quan Nhà nước có thẩm quyền để tiến hành thủ tục đăng ký quyền sở hữu, quyền sử dụng tài sản hoặc cập nhật biến động thông tin đối với quyền sử dụng đất có diện tích 12.459m2, thuộc thửa đất số 133, tờ bản đồ số 33, tọa lạc tại ấp C, xã P, huyện C, Thành phố Hồ Chí Minh theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số CM 162458, số vào sổ cấp GCN CT75368, ngày 20/8/2018 do Sở Tài nguyên và Môi trường Thành phố H cấp cho Công ty T.
1.3. Công ty Trách nhiệm hữu hạn Một thành viên T mới phải tiếp tục thanh toán số tiền còn lại là 500.000.000đ (Năm trăm triệu đồng) cho Công ty Trách nhiệm hữu hạn T theo Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất (có tài sản gắn liền với đất) số 036652/HĐ-CNQSDĐ, ngày 27/8/2018 tại Văn phòng C (nay là Văn phòng C1), số công chứng: 036652, quyển số 03TP/CC-SCC/HĐGD.
2. Về án phí kinh doanh thương mại sơ thẩm:
- Công ty Trách nhiệm hữu hạn T phải chịu án phí là 300.000đ (Ba trăm ngàn đồng) đối với việc Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất (có tài sản gắn liền với đất) ngày 27/8/2018 được công nhận và phải chịu án phí có giá ngạch (tính trên số tiền được nhận từ Công ty Trách nhiệm hữu hạn Một thành viên T bao bì Cuộc sống mới) là 24.000.000đ (Hai mươi bốn triệu đồng). Tổng cộng số tiền án phí Công ty Trách nhiệm hữu hạn T phải chịu là 24.300.000đ (Hai mươi bốn triệu ba trăm ngàn đồng).
- H1 lại cho Công ty Trách nhiệm hữu hạn Một thành viên T bao bì Cuộc sống mới số tiền tạm ứng án phí là 66.500.000đ (Sáu mươi sáu triệu năm trăm ngàn đồng) theo biên lai thu tiền số AA/2022/0020547 ngày 06/01/2023 của Chi cục Thi hành án Dân sự huyện Củ Chi.
Các mục [1], [2] thi hành tại Chi cục Thi hành án Dân sự có thẩm quyền.
Trường hợp Bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 của Luật Thi hành án Dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 của Luật Thi hành án Dân sự.
3. Nguyên đơn có mặt được quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị đơn vắng mặt được quyền kháng cáo án sơ thẩm trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được Bản án hoặc từ ngày Bản án được niêm yết.
Bản án về tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất số 36/2023/KDTM-ST
Số hiệu: | 36/2023/KDTM-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Củ Chi - Hồ Chí Minh |
Lĩnh vực: | Kinh tế |
Ngày ban hành: | 25/08/2023 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về