Bản án về tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất số 281/2023/DS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH AN GIANG

BẢN ÁN 281/2023/DS-PT NGÀY 20/12/2023 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG CHUYỂN NHƯỢNG QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT

Ngày 20 tháng 12 năm 2023 tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh A xét xử phúc thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 283/2023/TLPT-DS, ngày 13 tháng 11 năm 2023, về việc: “Tranh chấp hợp đng chuyn nhượng quyền sử dụng đất”. Do bản án dân sự sơ thẩm số 171/2023/DS-ST ngày 28 tháng 7 năm 2023 của Tòa án nhân dân thành phố Long Xuyên bị kháng cáo.

Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 304/2023/QĐXXPT-DS ngày 13 tháng 11 năm 2023 và Quyết định hoãn phiên tòa số 328/2023/QĐ-PT ngày 30/11/2023, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Ông Trần Ngọc P, sinh năm 1978 và bà Võ Thị Thanh H, sinh năm: 1979.

Cùng địa chỉ: số B, khóm M, phường M, thành phố L, tỉnh A.

Người đại diện theo ủy quyền: Ông Võ Văn O, sinh năm: 1953; Địa chỉ: số A, khóm Đ, phường M, thành phố L, tỉnh A (theo giấy ủy quyền được lập ngày 10/7/2021 tại Văn phòng C, tỉnh A) - Có mặt.

- Bị đơn: Ông Bùi Quốc H1, sinh năm: 1982. Địa chỉ: số A, khóm Đ, phường M, thành phố L, tỉnh A - Có mặt.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

+ Ông Huỳnh Chí T, sinh năm: 1986. Địa chỉ: số A đường C, phường M, thành phố L, tỉnh A - Vắng mặt (không có lý do).

+ Bà Lê Thị Tuyết X, sinh năm: 1982; Địa chỉ: 1, khóm Đ, phường M, thành phố L, tỉnh A - Có mặt.

+ Cháu Bùi Khánh Đ, sinh ngày: 17/9/2006;

+ Cháu Bùi Thị Tuyết M, sinh ngày 23/4/2012 Người giám hộ của cháu Đ và M: Ông Bùi Quốc H1, sinh năm: 1982 và bà Lê Thị Tuyết X, sinh năm: 1982. Cùng địa chỉ: 10/16, khóm Đ, phường M, thành phố L, tỉnh A (là cha mẹ ruột) - Có mặt.

+ Bà Trần Thị L, sinh năm: 1963. Địa chỉ: số A, khóm Đ, phường M, thành phố L, tỉnh A - Có mặt.

Người đại diện theo ủy quyền của bà L: Ông Phạm Hồng T1, sinh năm: 1965. Địa chỉ: khóm B, phường M, thành phố L, tỉnh A (theo giấy ủy quyền lập ngày 06/4/2023 tại Phòng C1 A) - Có mặt.

+ Ông Nguyễn Thanh N, sinh năm: 1989. Địa chỉ: số A, khóm Đ, phường M, thành phố L, tỉnh A - vắng mặt (không có lý do).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện và quá trình giải quyết vụ án, người đại diện nguyên đơn trình bày:

Ông Bùi Quốc H1 được Ủy ban nhân dân thành phố L cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CH06238, ngày 15/4/2015 với diện tích 200m2, tờ bản đồ số 9, thửa đất số 14, đất ở đô thị, tọa lạc tại phường M, thành phố L. Ngày 07/7/2020, ông Bùi Quốc H1 đã ủy quyền cho ông Huỳnh Chí T (theo số công chứng 425, quyển số 12TP/CC/HĐGD được Văn phòng C chứng nhận) đứng tên chuyển nhượng quyền sử dụng đất nêu trên cho vợ chồng ông Trần Ngọc P, bà Võ Thị Thanh H, với giá 250.000.000 đồng và được Văn phòng C chứng nhận ngày 07/7/2020 (giá thỏa thuận bên ngoài là 1.150.000.000 đồng). Sau khi ký hợp đồng chuyển nhượng thì ông P, bà H có đưa cho ông H1 940.000.000 đồng; đến ngày 29/7/2020, nhận thêm 100.000.000 đồng, còn lại 110.000.000 đồng hai bên thỏa thuận đến ngày 10/8/2020 khi bên bán giao nhà thì bên mua sẽ trả đủ.

Căn cứ hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất trên thì tại trang 4 về nội dung thay đổi và cơ sở pháp lý trong giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nói trên thể hiện: chuyển nhượng cho ông Trần Ngọc P và bà Võ Thị Thanh H và do Văn phòng Đ1 - Chi nhánh L2 ký ngày 26/8/2020. Sau khi được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thì ông P, bà H đã nhiều lần liên lạc với ông H1 để yêu cầu giao nhà nhưng ông H1 cố tình tránh mặt và không thực hiện việc bàn giao nhà, đất như đã thỏa thuận. Vì vậy, ông Trần Ngọc P và bà Võ Thị Thanh H khởi kiện yêu cầu ông Bùi Quốc H1 tiếp tục thực hiện Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng số công chứng 1571, quyển số 18/TP/CC-HĐGD do Văn phòng C chứng nhận ngày 07/7/2020, bên chuyển nhượng ông Bùi Quốc H1 ủy quyền cho ông Huỳnh Chí T thực hiện việc chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho ông Trần Ngọc P và bà Võ Thị Thanh H. Đồng thời, ông Bùi Quốc H1 phải có trách nhiệm giao căn nhà và đất cho ông Trần Ngọc P và bà Võ Thị Thanh H để sử dụng, sở hữu. Ông P, bà H sẽ trả 110.000.000 đồng số tiền chuyển nhượng quyền sử dụng còn lại cho ông Bùi Quốc H1. Bà Tê Thị Tuyết X phải di dời về nơi ở mới và trả lại nhà, đất cho ông P, bà H sử dụng.

Ông Võ Văn O đại diện theo ủy quyền cho ông P, bà H thống nhất biên bản xem xét thẩm định tại chỗ ngày 09/6/2022, bản trích đo hiện trạng khu đất do Văn phòng đăng ký đất đai - Chi nhánh L2 lập ngày 02/8/2022 và kết quả thẩm định giá theo Chứng thư thẩm định giá ngày 07/12/2022 của Công ty cổ phần T2.

Trong quá trình giải quyết bị đơn ông Bùi Quốc H1 trình bày:

Ông Bùi Quốc H1 và bà Lê Thị Tuyết X là vợ chồng, kết hôn từ năm 2005 đến nay, ông H1 chỉ quen biết với ông Huỳnh Chí T, không quen biết ông Trần Ngọc P và bà Võ Thị Thanh H. Nguồn gốc nhà đất nêu trên ông H1 được nhận thừa kế, tặng cho từ cha mẹ, quyền sử dụng đất chỉ đứng tên một mình ông H1. Hiện nay nhà đất này ông H1 sinh sống cùng với vợ Lê Thị Tuyết X cùng với các con là Bùi Khánh Đ, Bùi Thị Tuyết M.

Ông thừa nhận có ủy quyền cho ông T (Hợp đồng ủy quyền số công chứng 425, quyển số 12/TP/CC-HĐGD ngày 07/7/2020 tại Văn phòng C) đứng tên chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho vợ chồng ông Trần Ngọc P, bà Võ Thị Thanh H, với giá trong hợp đồng 250.000.000 đồng và được Văn phòng C chứng nhận ngày 07/7/2020 (giá thỏa thuận là 1.150.000.000 đồng). Việc ủy quyền chuyển nhượng đất này xuất phát từ việc ông nợ của ông T số tiền vay là 650.000.000 đồng nhưng không có làm biên nhận vay, đã thanh toán được 36.000.000 đồng tiền lãi (không có giấy tờ thể hiện việc trả lãi), còn nợ gốc chưa thanh toán được. Do không có khả năng thanh toán nên ông T đề nghị ông H1 ủy quyền cho ông T được toàn quyền quản lý, sử dụng và định đoạt đối với quyền sử dụng đất mà ông H1 đứng tên để ông T bán cho người khác lấy tiền trả nợ cho ông T, phần còn lại ông T sẽ đưa lại cho ông. Việc ông T ký hợp đồng chuyển nhượng đất cho ông Trần Ngọc P và bà Võ Thị Thanh H vào ngày 07/7/2020, số công chứng 1571, quyển số 18/TP/CC-HĐGD tại Văn phòng C nhưng ông H1 hoàn toàn không biết.

Ông thừa nhận biên nhận tiền mua bán nhà ngày 29/7/2020 do ông viết và ký tên, nhưng thực tế ông H1 không nhận số tiền 940.000.000 đồng, số tiền này ông T nhận để cấn trừ nợ gốc 650.000.000 đồng và lãi mà ông H1 còn nợ. Ông H1 chỉ nhận của ông P, bà H số tiền 100.000.000 đồng chi phí để di dời mộ cha mẹ ông đến chỗ khác.

Đối với yêu cầu khởi kiện của ông P, bà H thì ông H1 đồng ý tiếp tục thực hiện hợp đồng chuyển nhượng và giao nhà cho ông P, bà H nhưng đề nghị ông P, bà H hỗ trợ thêm 550.000.000 đồng và 110.000.000 đồng còn lại của hợp đồng để gia đình ông mua phần đất khác ổn định cuộc sống.

Thống nhất biên bản xem xét thẩm định tại chỗ ngày 09/6/2022, bản trích đo hiện trạng khu đất do Văn phòng đăng ký đất đai - Chi nhánh L2 lập ngày 02/8/2022 và kết quả thẩm định giá theo Chứng thư thẩm định giá ngày 07/12/2022 của Công ty cổ phần T2 cung cấp đối với thửa đất số 14, tờ bản đồ số 8, phường M, thành phố L mang tên ông Bùi Quốc H1 và không yêu cầu định giá lại.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Huỳnh Chí T vắng mặt, không có lý do và cũng không có văn bản trình bày ý kiến.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Lê Thị Tuyết X, cháu Bùi Khánh Đ, cháu Bùi Thị Tuyết M do ông Bùi Quốc H1 và bà Lê Thị Tuyết X là người giám hộ trình bày:

Bà X là vợ của ông Bùi Quốc H1, việc vay mượn nợ giữa ông H1 với ông T cũng như việc ông H1 ủy quyền cho ông T ký hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất tọa lạc tại phường M, thành phố L, tỉnh A bà hoàn toàn không biết. Bà thừa nhận quyền sử dụng đất nêu trên là tài sản ông H1 được thừa kế, tặng cho riêng nhưng bà có công sức trong việc chăm sóc cha mẹ chồng khi ốm đau, bệnh tật tuổi già vì vậy bà chỉ đồng ý di dời khi có chỗ ở khác cho bà và các con là Bùi Khánh Đ, Bùi Thị Tuyết M.

Bà X thống nhất biên bản xem xét thẩm định tại chỗ ngày 09/6/2022, bản trích đo hiện trạng khu đất do Văn phòng đăng ký đất đai - Chi nhánh L2 lập ngày 02/8/2022 và kết quả thẩm định giá theo Chứng thư thẩm định giá ngày 07/12/2022 của Công ty cổ phần T2 cung cấp đối với thửa đất số 14, tờ bản đồ số 8, phường M, thành phố T mang tên ông Bùi Quốc H1 và không yêu cầu định giá lại.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Trần Thị L, Nguyên Thanh N trình bày:

Bà Trần Thị L là em gái ruột của bà Trần Thị L1 - mẹ ông Bùi Quốc H1. Bà L được bà L1 cho cất nhà trên phần đất của ông H1 từ năm 2002 đến nay, với giá xây dựng nhà thời điểm đó khoảng 100.000.000 đồng. Nhà có kết cấu: nền gạch men, khung gạch, vách gạch, mái tole, có chiều ngang 4m, dài 6m. Bà L cùng con trai là Nguyễn Thanh N ở trên căn nhà này đến năm 2020, do ông H1 di dời mộ của bà L1 nên bà L không còn ở trên căn nhà đó nữa, hiện nhà bỏ trống. Bà L được cấp sổ hộ khẩu với số nhà A Đ, phường M, thành phố L, A. Hiện nay, bà L, ông N không có nhà để ở mà đang ở trong khu tập thể lò mổ Xí nghiệp chế biến lâm xuất sản tại khóm Đ, phường M. Bà L, ông N yêu cầu ông P, bà H hỗ trợ di dời căn nhà của bà với giá 200.000.000 đồng.

Tại Bản án dân sự sơ thẩm số 171/2023/DS-ST ngày 28 tháng 7 năm 2023 của Tòa án nhân dân thành phố Long Xuyên đã quyết định:

Căn cứ vào:

Khoản 3 Điều 26; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; Điều 68; khoản 1 Điều 147; điểm b khoản 2 Điều 227; khoản 3 Điều 228, điểm b khoản 1 Điều 238 khoản 1 Điều 273; Điều 278 và khoản 1 Điều 280 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;

Điều 221, Điều 223, Điều 500, Điều 501, Điều 502, Điều 503 và Điều 562 Bộ luật Dân sự năm 2015;

Điều 167, Điều 188 Luật Đất đai năm 2013;

Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và án phí Tòa án;

Tuyên xử:

[1] Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Trần Ngọc P và bà Võ Thị Thanh H đối với ông Bùi Quốc H1.

Công nhận Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày 07/7/2020 do Văn phòng C lập, theo hợp đồng ông Bùi Quốc H1 ủy quyền cho ông Huỳnh Chí T chuyển nhượng cho ông Trần Ngọc P, bà Võ Thị Thanh H.

Buộc ông Bùi Quốc H1, bà Lê Thị Tuyết X, cháu Bùi Khánh Đ, cháu Bùi Thị Tuyết M (cháu Đ, cháu M do ông H1, bà X giám hộ) phải có trách nhiệm giao diện tích đất 200m2, loại đất: đất ở đô thị, được giới hạn bởi các điểm 9 - 8 - 36 - 37; thuộc thửa số 14; tờ bản đồ số 8 theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số vào sổ CH06238 do Ủy ban nhân dân thành phố L cấp ngày 15/4/2015 cho ông Bùi Quốc H1. Tại trang số 4 do Văn phòng Đ1 - Chi nhánh L2 ký biến động ngày 26/8/2020, ông H1 chuyển nhượng cho ông Trần Ngọc P, bà Võ Thị Thanh H và căn nhà trên đất, diện tích xây dựng 94,9m2, có cấu trúc: nền gạch men + gạch tàu + láng xi măng, khung gỗ + khung gạch + khung sắt tiền chế, vách gạch + tole, mái tole, được giới hạn bởi các điểm 3-1-29-25-33-4 và mái che, được giới hạn bởi các điểm 9-8-24-6-3-4, diện tích 35,7m2 (theo Bản trích đo hiện trạng khu đất đo Văn phòng đăng ký đất đai - Chi nhánh L2 lập ngày 02/8/2022) cho ông P, bà H quản lý, sử dụng.

(Bản trích đo hiện trạng khu đất do Văn phòng đăng ký đất đai - Chi nhánh L2 lập ngày 02/8/2022 là một phần không th tách rời của Bản án).

Ông Bùi Quốc H1, bà Lê Thị Tuyết X, cháu Bùi Khánh Đ, cháu Bùi Thị Tuyết M được quyền lưu cư trong thời hạn 06 (sáu) tháng, kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật.

[2] Buộc ông Trần Ngọc P, bà Võ Thị Thanh H phải thanh toán số tiền 110.000.000 đồng (một trăm mười triệu đồng) còn lại của hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày 07/7/2020 do Văn phòng C lập cho ông Bùi Quốc H1.

Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với các khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành xong tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân sự năm 2015.

[3] Không chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Trần Ngọc P, bà Võ Thị Thanh H buộc ông H1 phải có nghĩa vụ giao nhà số B (nhà bà L) có cấu trúc nền gạch men, khung gạch, vách gạch, mái tole, có diện tích 23,4m2, được giới hạn bởi các điểm 34-28-35-30 (theo Bản trích đo hiện trạng khu đất do Văn phòng đăng ký đất đai - Chi nhánh L2 lập ngày 02/8/2022).

[4] Về chi phí tố tụng:

Chi phí đo đạc, xem xét thẩm định tại chỗ và định giá tài sản tranh chấp tổng cộng 11.531.680 đồng (mười một triệu, năm trăm ba mươi mốt nghìn, sáu trăm tám mươi đồng). Nguyên đơn đã tạm ứng trước nên bị đơn ông Bùi Quốc H1 có trách nhiệm hoàn trả số tiền 11.531.680 đồng (mười một triệu, năm trăm ba mươi mốt nghìn, sáu trăm tám mươi đồng) cho ông P, bà H.

Ngoài ra bản án còn tuyên về phần án phí và quyền kháng cáo.

Ngày 09/8/2023, bị đơn Bùi Quốc H1 có đơn kháng cáo yêu cầu sửa Bản án sơ thẩm, không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

Tại phiên tòa phúc thẩm: Bị đơn vẫn giữ nguyên yêu cầu kháng cáo, nguyên đơn vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện.

- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tham gia phiên tòa phát biểu:

+ Việc tuân theo pháp luật của người tham gia tố tụng, của Thư ký, Thẩm phán, Hội đồng xét xử không Phát hiện vi phạm.

+ Quan điểm giải quyết vụ án:

Hợp đồng ủy quyền ngày 07/7/2020 tại Văn phòng C giữa ông Bùi Quốc H1 với ông Huỳnh Chí T, theo nội dung ủy quyền ông H1 đồng ý ủy quyền cho ông T toàn quyền quyết định quyền sử dụng đất đối với thửa đất số CH06238, diện tích 200m2, thuộc tờ bản đồ số 8, thửa số 14, đất ở đô thị, tọa lạc tại phường M, thành phố L do Ủy ban nhân dân thành phố T cấp ngày 15/4/2015 cho ông Bùi Quốc H1. Cùng ngày ông T đã ký hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho ông Trần Ngọc P và bà Võ Thị Thanh H, với giá trong hợp đồng 250.000.000 đồng (giá thỏa thuận bên ngoài là 1.150.000.000 đồng), hợp đồng được công chứng tại Văn phòng C. Ông P, bà H đưa trước tổng cộng 1.040.000. 000 đồng, còn lại 110.000.000 đồng, khi nào giao nhà xong sẽ trả đủ. Do đó, việc chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa hai bên là có xảy ra.

- Về hình thức của hợp đồng: Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày 07/7/2020 giữa bên chuyển nhượng Bùi Quốc H1 do ông Huỳnh Chí T đại diện theo ủy quyền và bên nhận chuyển nhượng ông Trần Ngọc P và bà Võ Thị Thanh H được lập thành văn bản, có công chứng tại Văn phòng C là phù hợp quy định tại Điều 502 Bộ luật Dân sự năm 2015 và điểm a khoản 3 Điều 167 Luật Đất đai năm 2013.

- Về nội dung của hợp đồng: Ngày 07/7/2020, ông T ký hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất do ông Bùi Quốc H1 đứng tên cho ông Trần Ngọc P và bà Võ Thị Thanh H, hợp đồng được công chứng tại Văn phòng C, số công chứng 1571, Quyển 18/TP/HĐGD, ngày 07/7/2020, giá chuyển nhượng thực tế là 1.150.000.000 đồng, tuy nhiên trong hợp đồng hai bên thống nhất ghi giá chuyển nhượng là 250.000.000 đồng là nhằm mục đích để giảm thuế. Quá trình thực hiện hợp đồng ông P, bà H đã thanh toán cho ông H1 số tiền 1.040.000.000 đồng, còn lại 110.000.000 đồng đến nay chưa thanh toán. Đến ngày 26/8/2020 Văn phòng Đ1 chi nhánh L2 xác nhận tại trang 4 của giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CH06238 cho ông Trần Ngọc P và bà Vồ Thị Thanh H đứng tên là đúng theo quy định tại Điều 503 của Bộ Luật Dân sự năm 2015 là “Việc chuyển quyền sử dụng đất có hiệu lực kể từ thời điểm đăng ký theo quy định của Luật đất đai”. Và biên nhận mua bán nhà ngày 29/7/2020 ông H1 cũng bán căn nhà gắn liền với đất cho ông P, bà H. Do đó, hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa ông H1 với ông P, bà H ngày 07/7/2020 đã có hiệu lực thi hành nên cấp sơ thẩm chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn công nhận hiệu lực của hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất được xác lập ngày 07/7/2020, giữa ông P, bà H với ông H1 để buộc ông Bùi Quốc H1, bà Lê Thị Tuyết X, cháu Bùi Khánh Đ, cháu Bùi Thị Tuyết M (cháu Đ, cháu M do ông H1, bà X giám hộ) phải có trách nhiệm giao diện tích đất 200m2, đất ở đô thị, được giới hạn bởi các điểm 9, 8, 36, 37 và căn nhà trên đất, diện tích xây dựng 94,9m2, có cấu trúc: nền gạch men + gạch tàu + láng xi măng, khung gỗ + khung gạch + khung sắt tiền chế, vách gạch + tole, mái tole, được giới hạn bởi các điểm 3, 1, 29, 25, 33, 4 và mái che, được giới hạn bởi các điểm 9, 8, 24, 6, 3, 4, diện tích 35,7m2 (theo Bản trích đo hiện trạng khu đất do Văn phòng đăng ký đất đai - Chi nhánh L2 lập ngày 02/8/2022) cho ông P, bà H quản lý, sử dụng là có căn cứ.

Đối với số tiền 110.000.000 đồng, ông P, bà H chưa thanh toán cho ông H1 nên ông P, bà H phải có trách nhiệm thanh toán cho ông H1 số tiền 110.000.000 đồng.

Ông H1 cho rằng không nhận số tiền 940.000.00 đồng theo biên nhận tiền mua bán nhà ngày 29/7/2020 mà ông T đã cấn trừ số tiền 650.000.000 đồng nợ gốc và lãi ông H1 đã nợ của ông T. Thực tế ông H1 mới chỉ nhận của ông P, bà H số tiền 100.000.000 đồng để hỗ trợ di dời mộ của cha mẹ nhưng ngoài lời khai ra thì ông H1 không đưa ra được tài liệu, chứng cứ chứng minh, mặt khác ông T vắng mặt, không có văn bản trình bày ý kiến và ông P, bà H không thừa nhận. Đây là một giao dịch dân sự khác nếu có tranh chấp sẽ được xem xét giải quyết bằng vụ kiện khác.

Ông Bùi Quốc H1 kháng cáo nhưng không cung cấp được tài liệu chứng cứ chứng minh nên không có cơ sở xem xét chấp nhận.

Bởi các lẽ trên,Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh A đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm, Tòa án nhân dân tỉnh A, căn cứ khoản 1 Điều 308 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, phúc xử: Không chấp nhận kháng cáo của ông Bùi Quốc H1; giữ nguyên Bản án dân sự sơ thẩm số 171/2023/DS-ST ngày 28/7/2023 của Tòa án nhân dân thành phố Long Xuyên.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu toàn bộ các tài liệu, chứng cứ có lưu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, ý kiến phát biểu của Kiểm sát viên; sau khi thảo luận, nghị án, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng:

- Về quan hệ pháp luật và thẩm quyền xét xử như nhận định của Tòa án cấp sơ thẩm là hoàn toàn đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.

- Tại phiên tòa phúc thẩm, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan Nguyễn Thanh N vắng mặt nhưng đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhiều lần. Căn cứ Điều 296 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, Tòa án vẫn tiến hành xét xử vụ án.

- Về quyền kháng cáo và thời hạn kháng cáo: Bản án sơ thẩm của Tòa án nhân dân thành phố Long Xuyên tuyên ngày 28/7/2023, đến ngày 09/8/2023 bị đơn Bùi Quốc H1 kháng cáo bản án. Xét thời hạn kháng cáo, người có quyền kháng cáo đã đảm bảo theo đúng quy định tại Điều 271, 272, 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.

[2] Về nội dung:

Xét kháng cáo của bị đơn.

[2.1]. Hợp đồng ủy quyền ngày 07/7/2020 tại Văn phòng C giữa ông Bùi Quốc H1 với ông Huỳnh Chí T có nội dung ông H1 ủy quyền cho ông T toàn quyền quản lý, sử dụng và định đoạt quyền sử dụng đất theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CH06238, diện tích 200m2, thuộc tờ bản đồ số 8, thửa số 14, đất ở đô thị, tọa lạc tại phường M, thành phố L do Ủy ban nhân dân thành phố L cấp ngày 15/4/2015 cho ông Bùi Quốc H1.

Trên cơ sở hợp đồng ủy quyền trên, ông T và ông Trần Ngọc P, bà Võ Thị Thanh H đã ký hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất có diện tích 200m2 theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số vào sổ CH06238, ngày 15/4/2015 của Ủy ban nhân dân thành phố L cấp cho ông Bùi Quốc H1, thuộc tờ bản đồ số 8, thửa số 14, đất ở đô thị, tọa lạc tại phường M, thành phố L với giá trong hợp đồng 250.000.000 đồng (giá thỏa thuận bên ngoài là 1.150.000.000 đồng) được công chứng tại Văn phòng C vào ngày 07/7/2020. Ông P, bà H đã đưa trước tổng cộng 1.040.000.000 đồng được thể hiện qua Biên nhận mua bán nhà do ông Bùi Quốc H1 ký ngày 29/7/2020 (BL 04). Tại biên nhận trên còn có nội dung ông H1 giao nhà vào 10/8/2020 và số tiền còn lại 110.000.000 đồng sẽ trả đủ khi nào giao nhà. Nguồn gốc nhà đất trên do ông H1 được cho tăng tặng riêng.

Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất nêu trên đã thỏa mãn các điều kiện về chuyển nhượng, thể hiện sự tự nguyện của các bên, không vi phạm điều cấm của pháp luật, không trái đạo đức xã hội, đúng theo quy định tại các Điều 221, Điều 223, Điều 500, Điều 501, Điều 502, Điều 503; Điều 562 Bộ luật Dân sự năm 2015; Điều 167, Điều 188 Luật Đất đai năm 2013 nên cấp sơ thẩm chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn về việc công nhận hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất được xác lập vào ngày 07/7/2020, giữa ông P, bà H với ông H1 (do ông T đại diện theo ủy quyền) là có căn cứ. Ông P, bà H đã thực hiện xong việc đăng ký biến động về quyền sử dụng đất (Văn phòng Đ1 chi nhánh L2 xác nhận tại trang 4 của giấy chứng nhận quyền sử dụng đất). Do đó cấp sơ thẩm buộc ông Bùi Quốc H1, bà Lê Lhị Luyết X, cháu Bùi Khánh Đ, cháu Bùi Lhị Tuyết M (cháu Đ, cháu M do ông H1, bà X giám hộ) phải có trách nhiệm giao diện tích đất 200m2, loại đất: đất ở đô thị, được giới hạn bởi các điểm 9 - 8 - 36 - 37; thuộc thửa số 14; tờ bản đồ số 8 theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số vào sổ CH06238 do Ủy ban nhân dân thành phố L cấp ngày 15/4/2015 cho ông Bùi Quốc H1 (đăng ký thay đổi trang số 4 do Văn phòng đăng ký đất đai - Chi nhánh L2 ký biến động ngày 26/8/2020) đồng thời buộc ông P, bà H phải có trách nhiệm thanh toán thêm cho ông H1 số tiền 110.000.000 đồng là đúng quy định của pháp luật.

Mặc dù Bộ luật Dân sự năm 2015 không quy định về quyền lưu cư, tuy nhiên HĐXX xét thấy việc áp dụng quyền lưu cư cho bị đơn là cần thiết cho nên cấp sơ thẩm cho bị đơn được quyền lưu cư tại nhà đất tranh chấp 06 tháng tính từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật là phù hợp.

[2.2] Việc ông H1 cho rằng ông không nhận được số tiền 940.000.000 đồng theo biên nhận tiền mua bán nhà ngày 29/7/2020 do ông T đã cấn trừ số tiền 650.000.000 đồng nợ gốc và lãi mà ông H1 đã nợ của ông T, ông H1 chỉ nhận của ông P, bà H số tiền 100.000.000 đồng để hỗ trợ di dời mộ của mẹ ông H1. Tuy nhiên, ông H1 trình bày nhưng không đưa ra được tài liệu, chứng cứ chứng minh, trong khi nguyên đơn không thừa nhận sự việc này và ông T vắng mặt trong suốt quá trình giải quyết vụ án. Cấp sơ thẩm nhận định đây là một giao dịch dân sự khác nên dành quyền khởi kiện cho ông H1 bằng một vụ án khác nếu có yêu cầu là có căn cứ.

Bị đơn là người kháng cáo nhưng không đưa ra được bất cứ chứng cứ nào để chứng minh cho yêu cầu kháng cáo của mình nên HĐXX không có căn cứ để chấp nhận kháng cáo mà cần giữ nguyên bản án sơ thẩm mà Tòa án nhân dân thành phố Long Xuyên đã xét xử.

[3] Về án phí dân sự phúc thẩm: Do kháng cáo của nguyên đơn không được chấp nhận nên phải chịu án phí dân sự phúc thẩm.

Các phần khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo kháng nghị có hiệu lực kể từ ngày hết hạn kháng cáo, kháng nghị.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng:

+ Khoản 1 Điều 308 của Bộ luật Tố tụng dân sự;

+ Khoản 1 Điều 29 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

P1 xử:

- Không chấp nhận kháng cáo của ông Bùi Quốc H1.

Giữ nguyên Bản án dân sự sơ thẩm số 171/2023/DS-ST ngày 28 tháng 7 năm 2023 của Tòa án nhân dân thành phố Long Xuyên.

[1] Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Trần Ngọc P và bà Võ Thị Thanh H đối với ông Bùi Quốc H1.

Công nhận Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày 07/7/2020 do Văn phòng C lập, theo hợp đồng ông Bùi Quốc H1 ủy quyền cho ông Huỳnh Chí T chuyển nhượng cho ông Trần Ngọc P, bà Võ Thị Thanh H.

Buộc ông Bùi Quốc H1, bà Lê Thị Tuyết X, cháu Bùi Khánh Đ, cháu Bùi Thị Tuyết M (cháu Đ, cháu M do ông H1, bà X giám hộ) phải có trách nhiệm giao diện tích đất 200m2, loại đất: đất ở đô thị, được giới hạn bởi các điểm 9 - 8 - 36 - 37; thuộc thửa số 14; tờ bản đồ số 8 theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số vào sổ CH06238 do Ủy ban nhân dân thành phố L cấp ngày 15/4/2015 cho ông Bùi Quốc H1. Tại trang số 4 do Văn phòng Đ1 - Chi nhánh L2 ký biến động ngày 26/8/2020, ông H1 chuyển nhượng cho ông Trần Ngọc P, bà Võ Thị Thanh H và căn nhà trên đất, diện tích xây dựng 94,9m2, có cấu trúc: nền gạch men + gạch tàu + láng xi măng, khung gỗ + khung gạch + khung sắt tiền chế, vách gạch + tole, mái tole, được giới hạn bởi các điểm 3-1-29-25-33-4 và mái che, được giới hạn bởi các điểm 9-8-24-6-3-4, diện tích 35,7m2 (theo Bản trích đo hiện trạng khu đất đo Văn phòng đăng ký đất đai - Chi nhánh L2 lập ngày 02/8/2022) cho ông P, bà H quản lý, sử dụng.

(Bản trích đo hiện trạng khu đất do Văn phòng đăng ký đất đai - Chi nhánh L2 lập ngày 02/8/2022 là một phần không thể tách rời của Bản án).

Ông Bùi Quốc H1, bà Lê Thị Tuyết X, cháu Bùi Khánh Đ, cháu Bùi Thị Tuyết M được quyền lưu cư trong thời hạn 06 (sáu) tháng, kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật.

[2] Buộc ông Trần Ngọc P, bà Võ Thị Thanh H phải thanh toán số tiền 110.000.000 đồng (một trăm mười triệu đồng) còn lại của hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày 07/7/2020 do Văn phòng C lập cho ông Bùi Quốc H1.

Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với các khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành xong tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân sự năm 2015.

[3] Không chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Trần Ngọc P, bà Võ Thị Thanh H buộc ông H1 phải có nghĩa vụ giao nhà số B (nhà bà L) có cấu trúc nền gạch men, khung gạch, vách gạch, mái tole, có diện tích 23,4m2, được giới hạn bởi các điểm 34-28-35-30 (theo Bản trích đo hiện trạng khu đất do Văn phòng đăng ký đất đai - Chi nhánh L2 lập ngày 02/8/2022).

[4] Về chi phí tố tụng:

Chi phí đo đạc, xem xét thẩm định tại chỗ và định giá tài sản tranh chấp tổng cộng 11.531.680 đồng (mười một triệu, năm trăm ba mươi mốt nghìn, sáu trăm tám mươi đồng). Nguyên đơn đã tạm ứng trước nên bị đơn ông Bùi Quốc H1 có trách nhiệm hoàn trả số tiền 11.531.680 đồng (mười một triệu, năm trăm ba mươi mốt nghìn, sáu trăm tám mươi đồng) cho ông P, bà H.

- Về án phí phúc thẩm: Ông H1 phải chịu 300.000đồng án phí phúc thẩm được trừ vào tiền tạm ứng án phí phúc thẩm đã nộp theo Biên lai thu số 0002167 ngày 29/8/2023 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Long Xuyên.

Các phần khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo kháng nghị có hiệu lực kể từ ngày hết hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, Điều 7 và Điều 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

17
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất số 281/2023/DS-PT

Số hiệu:281/2023/DS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân An Giang
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 20/12/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về