Bản án về tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất số 26/2023/DS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN PHÚ BÌNH, TỈNH THÁI NGUYÊN

BẢN ÁN 26/2023/DS-ST NGÀY 29/09/2023 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG CHUYỂN NHƯỢNG QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT

Từ ngày 27/9/2023 đến ngày 29/9/2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Phú Bình, tỉnh Thái Nguyên xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 74/2020/TLST-DSST ngày 18 tháng 12 năm 2020. Theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 21 ngày 01/8/2023, về việc "Tranh chấp Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất" giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Ông Nguyễn Phi L, sinh năm 1981 (Vắng mặt).

Trú tại: TDP Đ, TT. H, huyện P, tỉnh Thái Nguyên.

Ủy quyền cho bà: Phạm Huyền T, sinh năm 1998 (Có mặt).

Luật sư thuộc công ty L2; Địa chỉ: Nhà số A, HH4C, khu đô thị L, quận H, thành phố Hà Nội.

- Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho ông Nguyễn Phi L:

1. Ông Lương Thành Đ (Có mặt).

2. Bà Phạm Thị Q (Có mặt).

3. Bà Nguyễn Thanh H (Có mặt).

Luật sư thuộc công ty L2; Địa chỉ: Nhà số A, HH4C, khu đô thị L, quận H, thành phố Hà Nội.

- Bị đơn: 1. Ông Nguyễn Văn N, sinh năm 1971 (Vắng mặt lần thứ hai không có lý do); 2. Bà Trịnh Thị T1, sinh năm 1975 (Có mặt).

Đều trú tại: Xóm B, xã K, huyện P, tỉnh Thái Nguyên.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1. Bà Ngọ Thị T2, sinh năm 1950 ( Mẹ đẻ của anh T1 - Vắng mặt lần thứ hai không có lý do).

Trú tại: Xóm T, xã K, huyện P, tỉnh Thái Nguyên.

2. UBND huyện P, tỉnh Thái Nguyên: Người đại diện theo ủy quyền: Ông Dương Ngọc T3 - Phó trưởng phòng Tài nguyên và Môi trường huyện P (Có đơn xin xét xử vắng mặt).

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan độc lập trong vụ án: Ngân hàng TMCP Đ1; Địa chỉ: A T, phường L, quận H, TP .; Người được ủy quyền: Ông Trần Hải V, sinh năm 1994 (Có mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

1. Theo đơn khởi kiện, bản tự khai, các biên bản lấy lời khai, hòa giải và tại phiên tòa, nguyên đơn và người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn trình bày: Ngày 24/11/2015 ông Nguyễn Văn N và bà Trịnh Thị T1 có viết và ký giấy chuyển nhượng cho ông Nguyễn Phi L quyền sử dụng đất thửa đất số 232a, thuộc tờ bản đồ số 17, xã K có diện tích 56m2. Trong giấy ông N, bà T1 đề nghị UBND xã K, phòng tài nguyên môi trường huyện P làm thủ tục chuyển nhượng quyền sử dụng đất sang tên ông L. Ngày 25/11/2015, vợ chồng ông N, bà T1 đã nhận toàn bộ số tiền chuyển nhượng đất của ông L. Vợ chồng ông N, bà T1 có viết và ký giấy nhận tiền chuyển nhượng quyền sử dụng đất, ghi rõ trong giấy: Vợ chồng tôi có chuyển nhượng cho anh Nguyễn Phi L, xóm S, xã K, huyện P, tỉnh Thái Nguyên thửa đất 232a, tờ bản đồ số 17, diện tích 56m2 với số tiền là 1.300.000.000đ (Một tỷ ba trăm triệu đồng), vợ chồng tôi đã nhận đủ số tiền trên.

Đến ngày 02/12/2015, vợ chồng ông Nguyễn Văn N, bà Trịnh Thị T1 và ông Nguyễn Phi L lập hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với đất, theo đó vợ chồng ông N, bà T1 chuyển nhượng cho ông L thửa đất số 232a, tờ bản đồ số 17, diện tích 56m2; địa chỉ xã K, huyện P, tỉnh Thái Nguyên; số giấy chứng nhận AI 735697 do UBND huyện P cấp ngày 09/04/2009. Sau đó, hai bên trao đổi, bàn bạc, thống nhất trên thực tế giá chuyển nhượng là 1.300.000.000đ(Một tỷ ba trăm triệu đồng), như trong giấy ông N, bà T1 viết và ký nhận đủ số tiền vào ngày 25/11/2015. Nhưng trong hợp đồng chỉ ghi số tiền là 110.000.000đ (Một trăm mười triệu đồng), bằng giá đất do UBND tỉnh T quy định ở khu vực này, tại thời điểm chuyển nhượng để nộp thuế thấp. Hợp đồng đã được UBND xã K chứng thực ngày 02/12/2015, sau đó được chuyển đến bộ phận một cửa UBND huyện P để làm thủ tục sang tên đổi chủ thửa đất trên theo quy định của pháp luật.

Đến ngày 20/01/2016, ông Nguyễn Phi L được UBND huyện P đã cấp giấy chứng nhận quyển sử dụng đất mang tên ông, số giấy chứng nhận CA 472304. Sau khi nhận được giấy chứng nhận quyển sử dụng đất, ông L đã nhiều lần gặp vợ chồng ông N, bà T1 yêu cầu giao nhà đất cho ông sử dụng, nhưng ông N, bà T1 tìm mọi lý do khất lần, không giao đất và nhà cho ông L. Ông N, bà T1 đã vi phạm cam kết, thoả thuận với ông. Không những vậy ông N, bà T1 còn làm đơn tố cáo ông L, bà Nguyễn Thị N1, có hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản là thửa đất nói trên tới Cơ quan cảnh sát điều tra - Công an huyện P. Tuy nhiên, đến ngày 06/9/2016, cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện P đã có thông báo số 154/CV-CQCSĐT kết luận: Hành vi của ông L, bà N1 không đủ yếu tố cấu thành tội phạm. Nội dung tố cáo của ông N, bà T1 không có căn cứ. Sau khi có kết luận của cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện P, ông L đã tiếp tục yêu cầu vợ chồng ông N, bà T1 giao nhà, đất để ông sử dụng nhung ông N, bà T1 vẫn không thực hiện, vi phạm những thoả thuận và cam kết trong hợp đồng các bên đã ký kết.

Đề nghị Tòa án nhân dân huyện Phú Bình giải quyết buộc vợ chồng ông N, bà T1 bàn giao quyền sử dụng đất, tài sản xây dựng trên thửa đất số 232a, tờ bản đồ số 17, xã K, huyện P cho ông L theo nhu hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất hai bên đã ký kết ngày 02/12/2015.

Phía ông L và đại diện theo ủy quyền của ông L xác nhận: Ông L đã ký kết với S, hợp đồng tín dụng trung - dài hạn số: 14142244.01.02.2016/HĐTD để vay số tiền 500.000.000 đồng. Mục đích vay: Vay mua đất. Thời hạn gian vay: 60 tháng kể từ ngày 02/02/2016 đến ngày 02/02/2021; Lãi suất cho vay là 9,9% trong 12 tháng đầu của khế ước nhận nợ. Để đảm bảo việc thanh toán khoản vay trên ông L có làm thủ tục thế chấp thửa đất số 232a, tờ bản đồ số 17, xã K, huyện P. Ông Nguyễn Phi L đề nghị Tòa án giải quyết vụ án theo quy định pháp luật.

2. Tại bản tự khai, các biên bản lấy lời khai, tại phiên tòa bị đơn ông Nguyễn Văn N và bà Trịnh Thị T1 khai: Năm 2013, bà T1 có tham gia chơi phường với bà Nguyễn Thị N1; trú tại: Xóm N, xã K, huyện P, tỉnh Thái Nguyên và bị bà N1 lừa, chiếm đoạt hết tiền của gia đình ông bà. Bà N1 có trao đổi, đề nghị với vợ chồng ông bà chuyển quyền sử dụng đất của gia đình ông bà cho bà N1, để bà đi vay tiền giúp tại Ngân hàng C1, để vay được nhiều tiền hơn vì bà N1 có người quen tại Ngân hàng này. Sau đó, bà N1 đã đưa vợ chồng ông bà đến nhà riêng của chị Kiều Thị H1, lúc đó là cán bộ văn phòng của Ủy ban nhân dân xã K để ký hợp đồng chuyển nhượng đất. Khi đến nhà chị H1, ông bà thấy có mặt cả chị T4 lúc đó là cán bộ Tư pháp Ủy ban nhân dân xã K chờ sẵn ở nhà chị H1. Sau đó chị T4 đã đưa cho vợ chồng ông bà tờ hợp đồng chuyển nhượng đất và bảo vợ chồng ông bà ký tên vào, vì tin tưởng nên ông bà đã ký vào giấy chuyển nhượng đất. Khi bà N1, ông L có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thửa đất của gia đình ông bà, thì đã không làm thủ tục đi vay tiền cho ông bà theo cam kết, mà bà N1, ông L cho người đến đuổi vợ chồng ông bà ra khỏi nhà. Do đó, ông bà đã làm đơn trình báo công an huyện P về nội dung sự việc trên, Công an huyện P đã giải quyết và trả lời cho ông bà về việc hành vi của ông T, bà N1 không đủ yếu tố cấu thành tội phạm. Ông bà xác định thửa đất mà UBND huyện P đã cấp cho ông L, là thửa đất của bố mẹ ông là ông Nguyễn Hồng C, bà Ngọ Thị T2, đã bị cấp chồng thêm một sổ đỏ mới cho ông Nguyễn Phi L là chồng của chị N1. Nay ông bà yêu cầu Tòa án tuyên Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa vợ chồng ông bà với ông L vô hiệu do bị lừa dối. Đề nghị hủy giấy chứng nhận cấp cho ông Nguyễn Phi L vì cấp không đúng, đã cấp chồng vào thửa đất ở của bố mẹ ông bà.

3. Tại bản tự khai, các biên bản lấy lời khai, tại phiên tòa người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan bà Ngọ Thị T2 trình bày: Năm 2013, vợ chồng bà được nhà nước cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số E741499 ngày 17/11/2003, tên hộ ông bà Nguyễn Hồng C, thửa đất số 232a tờ bản đồ số 17 mục đích sử dụng đất ở tại nông thôn, diện tích 112m2. Ngày 07/7/2009, vợ chồng bà tặng cho vợ chồng anh Nguyễn Văn N, chị Trịnh Thị T1 56m2, được tách từ thửa 232a tờ bản đồ số 17 thuộc xóm Đ, xã K, huyện P, tỉnh Thái Nguyên, thành thửa 232b cho vợ chồng anh N. Tuy nhiên UBND huyện P vẫn cấp là thửa 232a, đến nay bà được biết nhà nước lại cấp thửa đất của vợ chồng bà cho anh Nguyễn Phi L. Việc cấp quyền sử dụng đất của gia đình bà cho người khác không đúng, đã đã xâm phạm nghiêm trọng đến quyền và lợi ích hợp pháp của gia đình bà. Ngày 16/5/2017 ( âm lịch) ông Nguyễn Hồng C là chồng bà chết. Thửa đất 232a và tài sản trên thửa đất này gia đình bà vẫn sử dụng liên tục từ trước đến nay không tranh chấp với ai. Nay ông Nguyễn Phi L lại được cấp bìa đỏ chồng vào thửa đất của bà, bà đề nghị Tòa án và các cơ quan có thẩm quyền hủy bìa đỏ của ông L đã được cấp để trả lại đất cho bà sử dụng một cách hợp pháp.

4. Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan: UBND huyện P, tỉnh Thái Nguyên - Người đại diện theo ủy quyền là Ông Dương Ngọc T3 - Phó trưởng phòng TNMT huyện P trình bày:

* Đối với việc cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 02368 do UBND huyện cấp ngày 09/09/2009, mang tên hộ ông Nguyễn Văn N, bà Trịnh Thị T1: Việc cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của ông N, bà Trịnh Thị T1 được thực hiện trên cơ sở “Hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất” từ hộ ông Nguyễn Hồng C sang cho vợ chồng con trai, con dâu là ông Nguyễn Văn N và bà Trịnh Thị T1. Hợp đồng tặng cho này đã được UBND xã K hoàn thiện, chứng thực vào ngày 07/7/2009.

Căn cứ báo cáo của UBND xã K và hồ sơ tài liệu lưu trữ thì hợp đồng tặng cho nêu trên được lập đảm bảo theo đúng quy định pháp luật. Theo đó, ông Nguyễn Hồng C tặng cho hộ ông N, bà T1 một phần của thửa đất số 232a với diện tích 56m2, tờ bản đồ số 17, bản đồ địa chính xã K và được tách thửa đất mới mang số thửa 232b. Vị trí thửa đất ông C tặng cho con có vị trí giáp ranh như sau: Phía Bắc giáp mương; Phía Đông giáp đất nhà ông L1; Phía Nam giáp đường tỉnh lộ; Phía Tây giáp phần diện tích còn lại thửa đất số 232a của ông C.

Tuy nhiên, khi chuyến hồ sơ tặng cho lên cấp huyện giải quyết thì có sự nhầm lẫn trong quá trình in, viết Giấy chứng nhận của phòng Tài nguyên và Môi trường. Trên Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 02368 cấp ngày 09/9/2009 cho hộ ông N, bà T1 không lấy số thửa mới là 232b mà vẫn lấy số của thửa gốc là 232a. Khi nhận được giấy chứng nhận có sự trùng lặp về số thửa, hộ gia đình ông N, bà T1 không phát hiện ra sự nhầm lẫn và không có kiến nghị chỉnh sửa. Đồng thời, cán bộ địa chính xã K do không kiểm tra và thực hiện cập nhật chỉnh lý biến động hồ sơ địa chính theo quy định nên không phát hiện ra sai sót nêu trên. Dẫn đến giấy chứng nhận số 02368 của hộ ông N bị cấp sai số thửa nhưng không được phát hiện và đính chính sai sót kịp thời.

* Đối với việc cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 04205 do UBND huyện cấp ngày 20/01/2016 mang tên ông Nguyễn Phi L: Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của ông Nguyễn Phi L, được cấp trên cơ sở “Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất” từ vợ chồng ông Nguyễn Văn N, bà Trịnh Thị T1 sang cho ông L. Hợp đồng này đã được UBND xã K chứng thực ngày 02/12/2015. Theo đó, trích lục thửa đất chuyển nhượng kèm theo hợp đồng là thửa đất số 232a có vị trí giáp ranh như sau: Phía Bắc giáp mương; Phía Tây giáp đường xuống ao; Phía Nam giáp đường tỉnh lộ; Phía Đông không thể hiện chi tiết giáp ranh. Như vậy, xem xét về nội dung hợp đồng chuyển nhượng năm 2015, đối chiếu với hợp đồng tặng cho năm 2009 xác định: số thửa đất, vị trí thửa đất chuyển nhượng cho ông Nguyễn Phi L không đúng thửa đất mà hộ ông Nguyễn Hồng C cho vợ chồng ông Nguyễn Văn N, bà Trịnh Thị T1. Căn cứ theo hồ sơ địa chính, vị trí thửa đất thể hiện trên trích lục kèm theo hợp đồng chuyển nhượng năm 2015 từ hộ ông N, bà T1 sang cho ông Nguyễn Phi T, là của hộ ông Nguyễn Hồng C.

Đối với nội dung chứng thực hợp đồng: Căn cứ báo cáo số 19/BC-UBND ngày 18/5/2018, của UBND xã K xác định: Quá trình lập và chứng thực hợp đồng chua đảm bảo tuân thủ theo quy định, cụ thể:

- Cán bộ địa chính xã khi tham mưu hoàn thiện hồ sơ đã không kiểm tra thực địa và đối chiếu với hồ sơ địa chính, dẫn đến trích lục nhầm vị trí thửa đất chuyển nhượng.

- Cán bộ tư pháp xã đã thực hiện cho các bên ký kết hợp đồng ở bên ngoài địa điểm trụ sở UBND xã và tham mưu cho Chủ tịch UBND xã chứng thực hợp đồng là vi phạm quy định tại khoản 1, 2 Điều 10 Nghị định số 23/2015/NĐ-CP ngày 16/2/2015 của Chính phủ. Các nội dung sai sót nêu trên, UBND xã K đã có báo cáo giải trình làm rõ, đồng thời nhận khuyết điểm và đề nghị Tòa án nhân dân huyện hủy bỏ hợp đồng chuyển nhượng này do việc lập và chứng thực hợp đồng không đảm bảo theo quy định.

Đại diện UBND huyện P đề nghị Tòa án: Tuyên vô hiệu hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất đã lập giữa vợ chồng ông Nguyễn Văn N, bà Trịnh Thị T1 với ông Nguyễn Phi L. Do việc lập và chứng thực hợp đồng không đúng theo quy định và tuyên bố hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 04205 ngày 20/01/2016 mang tên ông Nguyễn Phi L.

5. Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan độc lập trong vụ án: Ngân hàng TMCP Đ1 khai: Ngày 01/02/2016, ông Nguyễn Phi L đã ký kết với S Hợp đồng tín dụng trung - dài hạn số: 14142244.01.02.2016/HĐTD để vay vốn số tiền 500.000.000 đồng. Mục đích vay: Vay mua đất. Thời hạn gian vay: 60 tháng kể từ ngày 02/02/2016 đến ngày 02/02/2021; Lãi suất cho vay là 9,9% trong 12 tháng đầu của khế ước nhận nợ. Lãi suất cho vay các tháng tiếp theo bằng lãi suất VNĐ kỳ hạn 13 tháng của sản phẩm tiết kiệm lĩnh lãi cuối kỳ đối với khách hàng cá nhân cộng (+) biên độ tối thiểu 4.0%/năm. Lãi suất quá hạn: 150% lãi suất trong hạn và được áp dụng đối với dư nợ gốc quá hạn hoặc dư nợ lãi quá hạn. Thực hiện các hợp đồng tín dụng đã ký kết giữa các bên, Ngân hàng S đã giải ngân cho bên vay đầy đủ theo cam kết. Tài sản bảo đảm cho khoản vay là quyền sử dụng đất 56m2 tại thửa số 232a, tờ bản đồ số 17, địa chỉ: xã K, huyện P theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khách gắn liền với đất số CA 472304; số vào sổ CH 04205/QSDĐ do UBND huyện P, tỉnh Thái Nguyên cấp cho ông Nguyễn Phi L ngày 20/01/2016. Tài sản được thế chấp theo hợp đồng thế chấp số: 14142244.01.02.2016/HĐTC, số công chứng: 605, quyển số 01 TP/CC-SCC/HĐGD tại phòng Công chứng số 01 tỉnh Thái Nguyên ngày 01/02/2016. Việc thế chấp đã được đăng ký giao dịch bảo đảm đúng theo quy định của pháp luật. Trong quá trình thực hiện hợp đồng tín dụng nói trên, bên vay vốn đã vi phạm nghĩa vụ hoàn trả nợ gốc và nợ lãi cho S. Kể từ khi vay vốn, bên vay mới chỉ trả cho S được số tiền: 365.532.725 đồng (Trong đó 258.323.000 đồng nợ gốc; 107.044.253 đồng nợ lãi trong hạn và 165.472 đồng nợ lãi quá hạn). Sau khi khoản vay phát sinh nợ quá hạn, ngân hàng S đã nhiều lần đôn đốc, yêu cầu bên vay và bên thế chấp liên quan trả nợ cho Ngân hàng. Mặc dù có rất nhiều cam kết trả nợ với S nhưng bên vay và các bên liên quan đã thực hiện không đúng. Đại diện Ngân hàng TMCP Đ1 đề nghị Tòa án nhân dân huyện Phú Bình, tỉnh Thái Nguyên xem xét giải quyết các yêu cầu như sau:

- Buộc ông Nguyễn Phi L trả cho Ngân hàng TMCP Đ1 tổng số tiền còn nợ tính đến ngày 27/9/2023, dư nợ của bên vay vốn tại ngân hàng là:

- Nợ gốc: 241.677.000 đồng.

- Nợ lãi trong hạn : 37.890.233 đồng.

- Nợ lãi quá hạn: 205.447.888 đồng.

- Tổng cộng: 485.015.121 đồng.

- Buộc ông Nguyễn Phi L thanh toán số tiền lãi, phạt phí phát sinh theo lãi suất trong hạn, lãi suất quá hạn theo hợp đồng tín dụng: 14142244.01.02.2016/HĐTD kỳ ngày 01/02/2016 kể từ ngày 27/9/2023 cho tới khi thanh toán xong toàn bộ khoản nợ.

- Kể từ ngày bản án của Tòa án có hiệu lực thi hành, nếu ông Nguyễn Phi L không thực hiện nghĩa vụ thanh toán khoản nợ nêu trên, thì Ngân hàng TMCP Đ1 có quyền yêu cầu cơ quan thi hành án dân sự tiến hành kê biên, phát mại toàn bộ tài sản bảo đảm của ông L đối với Ngân hàng.

- Nếu số tiền thu được từ bán, xử lý tài sản bảo đảm vẫn không đủ trả nợ cho Ngân hàng TMCP ĐI thì ông Nguyễn Phi L vẫn phải tiếp tục thực hiện nghĩa vụ trả nợ cho Ngân hàng cho đến khi tất toán toàn bộ các khoản vay.

Tại biên bản xem xét thẩm định tại chỗ và biên bản định giá tài sản ngày 22/5/2023 đối với tài sản tranh chấp là thửa đất 232a, tờ bản đồ số 17, bản đồ địa chính xã K, mục đích sử dụng: Đất ở nông thôn, UBND huyện P cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho hộ ông Nguyễn Phi L, số vào sổ 04205 ngày 20/01/2016. Thửa đất có diện tích 56m2, tứ cận của thửa đất như sau: Phía Đông giáp thửa 232b, phía Tây giáp nhà văn hóa xóm Đầu cầu, phía Bắc giáp thửa đất ao của gia đình ông L1, bà X, phía Nam giáp đường T. Trên thửa đất có một ngôi nhà ở 3 tầng xây dựng kiên cố. Hiện gia đình ông N, bà T1 vẫn đang quản lý sử dụng thửa đất và tài sản trên đất. Tổng giá trị tài sản tranh chấp được Hội đồng định giá xác định là 466.518.158 đồng.

Tại phiên tòa người được ông Nguyễn Phi L ủy quyền; người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho ông L có ý kiến: Đề nghị HĐXX công nhận hợp đồng chuyển nhượng nhà đất ngày 02/12/2015 giữa vợ chồng ông Nguyễn Văn N, bà Trịnh Thị T1 với ông Nguyễn Phi L là hợp pháp. Buộc ông N, bà T1 phải trả lại nhà đất tại thửa đất số 232a, tờ bản đồ số 17, diện tích 56m2; địa chỉ xã K, huyện P, tỉnh Thái Nguyên; đã được cấp GCNQSD đất số giấy chứng nhận AI 735697 do UBND huyện P cấp ngày 09/04/2009 cho ông Nguyễn Phi L.

Nhất trí với ý kiến của đại diện Ngân hàng TMCP Đ1 tại phiên tòa về việc yêu cầu ông Nguyễn Phi L, có trách nhiệm trả cho Ngân hàng số tiền gốc là 241.677.000 đồng và lãi theo thỏa thuận đã ký kết cho đến khi trả xong.

Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Phú Bình phát biểu điểm đối với vụ án:

* Việc tuân theo pháp luật trong thời gian chuẩn bị xét xử:

- Thẩm phán đã thực hiện đúng quy định tại Điều 196 BLTTDS năm 2015 về ra thông báo về việc thụ lý vụ án; bảo đảm về thời hạn chuẩn bị xét xử, việc lập hồ sơ vụ án đúng theo quy định tại Khoản 1 Điều 203, Điều 204 BLTTDS.

- Việc xác định tư cách đương sự, mối quan hệ giữa những người tham gia tố tụng: Đúng theo quy định Điều 68 BLTTDS 2015.

- Việc giao nộp và yêu cầu đương sự giao nộp tài liệu, chứng cứ: đúng theo quy định tại Điều 96 BLTTDS năm 2015.

- Việc xác minh, thu thập chứng cứ: Thẩm phán đã thực hiện đúng theo quy định Điều 97 BLTTDS năm 2015.

- Việc cấp, tống đạt, thông báo văn bản tố tụng: Thủ tục cấp tống đạt đúng theo quy định tại Điều 177, 178 Bộ Luật tố tụng dân sự.

- Việc tổ chức phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận công khai chứng cứ và hòa giải: đã được tiến hành theo đúng quy định tại Điều 208-211.

* Việc tuân theo pháp luật của HĐXX, Thư ký tại phiên tòa: Tại phiên tòa hôm nay, HĐXX, Thư ký đã thực hiện đúng quy định tại các Điều 239, 240, 241, 243, 246, 247, 249, 250, 258 BLTTDS năm 2015; Thư ký phiên tòa đã tuân theo đúng quy định tại Điều 51, 237, khoản 2 Điều 239 BLTTDS năm 2015 về nhiệm vụ, quyền hạn của thư ký tòa án, về chuẩn bị khai mạc và khai mạc phiên tòa.

* Việc tuân theo pháp luật tố tụng của người tham gia tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án kể từ khi thụ lý cho đến trước thời điểm HĐXX nghị án: Đối với nguyên đơn cơ bản thực hiện đúng các quy định tại Điều 70, 71 của BLTTDS năm 2015 về quyền, nghĩa vụ của nguyên đơn; Đối với bị đơn thực hiện chưa đúng quy định tại Điều 70-72 BLTTDS năm 2015 về quyền, nghĩa vụ của bị đơn.

Quan điểm giải quyết vụ án của Viện Kiểm sát nhân dân huyện Phú Bình:

- Xác định việc mua bán nhà giữa ông Nguyễn Phi L với bà Trần Thị T5 và ông Nguyễn Văn N là có thật, việc sai sót đối với thửa đất là do cơ quan chuyên môn, không phải do lỗi của các bên mua bán, cần chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông L. Đề nghị HĐXX tuyên bố hợp đồng mua bán tài sản giữa ông L và bà T5 và ông N là vô hiệu, ông L có quyền liên hệ với cơ quan pháp luật để cấp lại giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo đúng thửa đất đã mua của bà T5 và ông N, bà T5 và ông N có trách nhiệm bàn giao tài sản cho ông L.

- Ông L có trách nhiệm trả số nợ gốc và lãi cho Ngân hàng Đ1 theo như hợp đồng đã ký kết.

Các đương sự có quyền kháng cáo theo quy định.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa, kết quả tranh tụng và ý kiến của đại diện Viện kiểm sát tham gia phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy:

Về tố tụng:

[1]. Về quan hệ pháp luật và thẩm quyền giải quyết vụ án: ông Nguyễn Phi L khởi kiện yêu cầu ông Nguyễn văn N, bà Trịnh Thị T1 tiếp tục thực hiện Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất, bàn giao đất và tài sản trên đất cho ông L quản lý sử dụng theo hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất mà các bên đã ký kết. Hội đồng xét xử xác định: Quan hệ tranh chấp giữa các đương sự được xác định là tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất. Nơi hợp đồng được thực hiện tại xã K, huyện P nên thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Phú Bình, theo quy định tại khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm g khoản 1 Điều 40 Bộ luật Tố tụng dân sự.

[2]. Về sự tham gia tố tụng của các đương sự: Tòa án nhân dân huyện Phú Bình đã tiến hành giao quyết định đưa vụ án ra xét xử; giao quyết định hoãn phiên tòa cho các đương sự trong vụ án theo quy định của Bộ Luật tố tụng dân sự. Nhưng anh N là bị đơn; bà Ngọ Thị T2 là người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan vắng mặt lần thứ hai không có lý do. Nên HĐXX căn cứ khoản 1 Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự vẫn xét xử tiến hành xét xử vụ án.

Về nội dung:

[3]. Xét yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn: ông Nguyễn Phi L khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết buộc vợ chồng ông Nguyễn văn N, bà Trịnh Thị T1 phải có trách nhiệm tiếp tục thực hiện "Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất" mà hai bên đã ký kết ngày 02/12/2015; yêu cầu ông N, bà T1 phải bàn giao thửa đất số 232a, tờ bản đồ số 17, bản đồ địa chính xã K mà ông đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số vào sổ CH 04205/QSDĐ ngày 20/01/2016 mang tên ông L. Để xác định được nội dung yêu cầu của ông Nguyễn Phi L có căn cứ chấp nhận không, Hội đồng xét xử cần xem xét tính pháp lý của "Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất" đã được thiết lập đối với thửa đất 232a, tờ bản đồ số 17, bản đồ địa chính xã K, huyện P.

3.1. Về áp dụng pháp luật nội dung: Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất được lập ngày 02/12/2015, giữa ông Nguyễn Phi L với vợ chồng ông Nguyễn Văn N, bà Trịnh Thị T1 đối với thửa đất số 232a, có diện tích 56m2, tờ bản đồ số 17, bản đồ địa chính xã K được các bên xác lập, nhưng chưa thực hiện xong quyền và nghĩa vụ đã được quy định tại hợp đồng và đã phát sinh tranh chấp, khởi kiện ra Tòa án vào ngày 13/02/2017 (sau ngày Bộ luật dân sự năm 2015 có hiệu lực pháp luật). Nên Hội đồng xét xử áp dụng Bộ luật dân sự năm 2015 để xem xét tính pháp lý của hợp đồng này.

3.2. Xét hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất được lập ngày 02/12/2015, giữa ông Nguyễn Phi L với vợ chồng ông N, bà T1 đối với thửa đất số 232a, có diện tích 56m2, tờ bản đồ số 17, bản đồ địa chính xã K, được các bên xác lập thể hiện trong hợp đồng tại trụ sở UBND xã K, huyện P. Bên nhận chuyển nhượng là ông Nguyễn Phi L, đã đăng ký và được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số vào sổ CH 04205/QSDĐ ngày 20/01/2016 do UBND huyện P cấp. Như vậy, hình thức của hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất đúng quy định của pháp luật và hợp đồng đã có hiệu lực.

Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ do các bên đương sự xuất trình là GCNQSD đất mang tên ông Nguyễn Phi L, số vào sổ CH 04205/QSDĐ ngày 20/01/2016 do UBND huyện P cấp; GCNQSD đất mang tên hộ ông Nguyễn Hồng C số vào sổ cấp GCNQSD đất số 01973/QSDĐ/1183/QĐ - UB ngày 17/11/2013 do UBND huyện P cấp; Biên bản hòa giải tại UBND xã K, huyện P; Báo cáo số 19/BC-UBND ngày 18/5/2018 của UBND xã K; Công văn số 592/UBND - TNMT ngày 29/6/2018 của UBND huyện P; biên bản xem xét thẩm định tại chỗ Hội đồng xét xử thấy rằng: Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của ông Nguyễn Phi L được cấp trên cơ sở “Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất” từ vợ chồng ông Nguyễn Văn N, bà Trịnh Thị T1 sang cho ông L. Hợp đồng này đã được UBND xã K chứng thực ngày 02/12/2015. Theo đó, trích lục thửa đất chuyển nhượng kèm theo hợp đồng là thửa đất số 232a có vị trí giáp ranh như sau: Phía Bắc giáp mương; Phía Tây giáp đường xuống ao; Phía Nam giáp đường tỉnh lộ; Phía Đông không thể hiện chi tiết giáp ranh. Như vậy, xem xét về nội dung hợp đồng chuyển nhượng năm 2015 giữa vợ chồng ông N, bà T1 cho ông L, đối chiếu với hợp đồng tặng cho năm 2009 của ông Nguyễn Hồng C cho vợ chồng ông N, bà T1 là sai vị trí thửa đất mà ông C đã làm hợp đồng tặng cho ông N, bà T1.

Căn cứ theo hồ sơ địa chính, vị trí thửa đất thể hiện trên trích lục kèm theo hợp đồng chuyển nhượng năm 2015 từ hộ ông N và bà T1 sang cho ông Nguyễn Phi L, là thửa đất của hộ ông Nguyễn Hồng C, bà Ngọ Thị T2. Như vậy, thửa đất 232a mà ông Nguyễn Phi L được cấp quyền sử dụng chồng lên thửa đất 232a của hộ ông C, bà T2 là bố, mẹ của ông N đang quản lý sử dụng, cần phải giao lại thửa đất này cùng tài sản trên đất cho bà Ngọ Thị T2 quản lý sử dụng.

Căn cứ vào hợp đồng tặng cho đất ngày 07/7/2009 của ông Nguyễn Hồng C, bà Ngọ Thị T2 đối với ông N, bà T1 thấy rằng: Hợp đồng này của ông C, bà T2 tặng cho ông N, bà T1 thửa đất số 232b, trên sơ đồ trích tại hợp đồng tặng cho thể hiện có thửa 232a là nhà đất của ông C, bà T2; thửa đất số 232b là thửa đất của ông N, bà T1. Nhưng khi cấp GCNQSD đất cho ông N, bà T1 thì UBND huyện P đã in nhầm số thửa đất của vợ chồng ông N từ thửa 232b thành thửa đất số 232a, trùng với số thửa của ông C, bà T2. Dẫn đến việc ông N, bà T1 khi chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho ông L vào ngày 02/12/2015 vẫn được ghi là thửa đất số 232a, trùng với số thửa đất của ông C, bà T2.

Hội đồng xét xử xác định: Thửa đất của ông N, bà T1 đã chuyển nhượng cho ông L là thửa đất số 232b, có tứ cận như hợp đồng tặng cho ngày 07/7/2009 của ông C, bà T2, cụ thể: Phía Bắc giáp mương; Phía Đông giáp đất nhà ông L1; Phía Nam giáp đường tỉnh lộ; Phía Tây giáp phần diện tích còn lại thửa đất số 232a của ông C, bà T2. Việc mua bán, chuyển nhượng đất giữa ông N, bà T1 với ông L thể hiện là mua bán thửa đất 232b của ông C, bà T2 cho ông N, bà T1 vào ngày 07/7/2009, chứ không phải thửa đất 232a của ông C, bà T2. Hai bên đã giao và nhận đủ tiền cho nhau vào ngày 25/11/2015, hợp đồng mua bán có chứng thực của UBND xã K, huyện P. Như vậy việc mua bán đất giữa hai bên đương sự đã hoàn tất.

Hội đồng xét xử xác định thửa đất mà vợ chồng ông N, bà T1 đã chuyển nhượng cho ông L là thửa đất số 232b, có tứ cận phía Bắc giáp mương; Phía Đông giáp đất nhà ông L1; Phía Nam giáp đường tỉnh lộ; Phía Tây giáp phần diện tích còn lại thửa đất số 232a của ông C. Ủy ban nhân dân huyện P xác định số thửa đất 232a GCNQSD đất số vào sổ 03268 cấp ngày 09/9/2009 tên hộ ông bà Nguyễn Văn N, Trịnh Thị T1; số thửa đất 232a GCNQSD đất số vào sổ CH 04205 cấp ngày 20/01/2016 tên ông Nguyễn Phi L là do UBND huyện P in nhầm, số đúng phải là 232b, tờ bản đồ số 17, bản đồ địa chính xã K. Nên cần tiếp tục giao thửa đất số 232b này cho ông Nguyễn Phi L quản lý sử dụng. Ông L cần phải đến các cơ quan có thẩm quyền để làm thủ tục được cấp lại GCNQSD đất cho đúng với thửa đất, diện tích đất mà ông đã mua của vợ chồng N, bà T1.

Đối với nội dung chứng thực hợp đồng: Căn cứ báo cáo số 19/BC-UBND ngày 18/5/2018 của UBND xã K, xác định quá trình lập và chứng thực hợp đồng chua đảm bảo tuân thủ theo quy định, cụ thể: Cán bộ địa chính xã khi tham mưu hoàn thiện hồ sơ đã không kiểm tra thực địa, đối chiếu với hồ sơ địa chính dẫn đến trích lục nhầm vị trí thửa đất chuyển nhượng. Cán bộ tư pháp xã đã thực hiện cho các bên ký kết hợp đồng ở bên ngoài địa điểm Trụ sở UBND xã, tham mưu cho Chủ tịch UBND xã chứng thực hợp đồng vi phạm quy định tại khoản 1, 2 Điều 10 Nghị định số 23/2015/NĐ-CP ngày 16/2/2015 của Chính phủ. Từ những căn cứ trên, có đủ cơ sở để xác định: Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa vợ chồng ông Nguyễn văn N, bà Trịnh Thị T1 với ông Nguyễn Phi L đối với thửa đất số 232a, có diện tích 56m2, tờ bản đồ số 17, bản đồ địa chính xã K, xác lập ngày 02/12/2015 là vô hiệu.

[4]. Xét yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là Ngân hàng TMCP Đ1: Hội đồng xét xử thấy rằng hợp đồng Hợp đồng tín dụng số: 14142244.01.02.2016/HĐTD ký kết ngày 01/02/2016, phù hợp với các quy định tại Điều 463, 464, 465, 466 của Bộ luật dân sự năm 2015. Các bên đều xác nhận đúng nội dung sự việc và trên thực tế các bên đều đã thực hiện hợp đồng, vì vậy hai hợp đồng trên có hiệu lực thi hành đối với các bên.

Quá trình thực hiện hợp đồng ngày 26/4/2019, Ngân hàng TMCP Đ1 đã giải ngân cho ông Nguyễn Phi L số tiền 500.000.000 đồng. Trong quá trình thực hiện hợp đồng ông L mới trả cho Ngân hàng được số tiền: 365.532.725 đồng (trong đó bao gồm: 258.323.000 đồng nợ gốc; 107.044.253 đồng nợ lãi trong hạn và 165.472 đồng nợ lãi quá hạn). Tính đến ngày 29/9/2023 ông Nguyễn Phi L còn 241.677.000 đồng. Đến thời điểm hiện nay ông L không thanh toán được số tiền gốc, tiền lãi theo hợp đồng đã thỏa thuận. Ngân hàng TMCP Đ1 khởi kiện ông đến Tòa án nhân dân huyện Phú Bình là có căn cứ nên chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng TMCP ĐI đối với ông L, cụ thể: Buộc ông L phải có trách nhiệm trả cho Ngân hàng TMCP Đ1 số tiền gốc là 241.677.000đ; tiền lãi tính đến ngày 29/6/2023 là 243.338.121đ; Trong đó lãi trong hạn: 37.890.233đ; lãi quá hạn: 205.447.888 đồng. Tổng cộng cả gốc và lãi: 485.015.121 đồng.

* Đối với đề nghị tiến hành xử lý tài sản thế chấp cụ thể kê biên, phát mại toàn bộ tài sản bảo đảm là: Quyền sử dụng đất 56m2 tại thửa số 232a, tờ bản đồ số 17, địa chỉ: xóm S, xã K, huyện P theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số CA 472304, số vào sổ CH 04205/QSDĐ do UBND huyện P cấp cho ông Nguyễn Phi T ngày 20/01/2016. Hội đồng xét xử thấy rằng: Tại hợp đồng thế chấp số: 14142244 ngày 01.02.2016/HĐTC, số công chứng: 605, quyển số 01 TP/CC-SCC/HĐGD tại phòng Công chứng số 01 tỉnh Thái Nguyên ngày 01/02/2016, thể hiện ông Nguyễn Phi L đã thế chấp tài sản cho ngân hàng TMCP Đ1, trong đó có thể chấp tài sản gồm: Thửa đất số 232a, có diện tích 56m2, tờ bản đồ số 17, bản đồ địa chính xã K đã được cấp GCNQSD đất số vào sổ CH 04205 cấp cho ông T ngày 20/01/2016 là thửa đất số 232b do ông C, bà T2 cho ông N, bà T1 ngày 07/7/2009.

Nên việc Ngân hàng TMCP Đ1 đề nghị xử lý tài sản là thửa đất thửa đất số 232a, có diện tích 56m2, tờ bản đồ số 17, bản đồ địa chính xã K trên đất có một ngôi nhà ba tầng của ông C, bà T2 là không có căn cứ, mà ngân hàng phải yêu cầu xử lý tài sản là thửa đất số 232b có nguồn gốc của ông C, bà T2 cho ông N, bà T1 ngày 07/7/2009 và thửa đất này ông N, bà T1 đã chuyển nhượng cho ông T vào ngày 02/12/2015.

[5]. Về chi phí tố tụng:

- Về các lệ phí, chi phí tố tụng khác: Quá trình điều tra thu thập chứng cứ, Ngân hàng TMCP Đ1 đã nộp số tiền 10.000.000đ chi phí cho việc thẩm định, định giá tài sản. Nay yêu cầu của Ngân hàng được chấp nhận nên buộc ông L phải trả lại số tiền chi phí tố tụng cho Ngân hàng.

- Ông L phải tự chịu số tiền thẩm định tài sản là 1.900.000 đã nộp cho Tòa án nhân dân huyện Phú Bình.

[6]. Về án phí dân sự sơ thẩm: ông Nguyễn văn N, bà Trịnh Thị T1, ông Nguyễn Phi L phải chịu án phí DSST; hoàn trả cho Ngân hàng TMCP Đ1 số tiền tạm ứng án phí DSST.

[7]. Về quyền kháng cáo: Các đương sự được quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ các Điều 131, 117, 317, 319, 425, 427, 463, 464, 465, 466, 357, 468, 500, 501, 502, 503, 688 Bộ luật Dân sự; Điều 91, 95 của Luật Tổ chức tín dụng Điều 188, 203 Luật Đất đai; Căn cứ khoản 3 Điều 26, khoản 1 Điều 35, điểm g khoản 1 Điều 40, Điều 147, khoản 1 Điều 157, khoản 1 Điều 165, khoản 1 Điều 227 của Bộ luật tố tụng dân sự; Nghị Quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

Tuyên bố:

1. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Phi L, đối với yêu cầu buộc ông Nguyễn văn N và bà Trịnh Thị T1 phải có trách nhiệm tiếp tục thực hiện hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất đối với thửa đất số 232a, có diện tích 56m2, tờ bản đồ số 17, bản đồ địa chính xã K, xác lập ngày 02/12/2015. Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày 02/12/2015 được lập tại UBND xã K giữa ông Nguyễn Phi Lvới ông Nguyễn văn N và bà Trịnh Thị T1 đối với thửa đất số 232a, có diện tích 56m2, tờ bản đồ số 17, bản đồ địa chính xã K là vô hiệu.

2. Giao cho ông Nguyễn Phi L quản lý sử dụng thửa đất số 232b, diện tích 56m2, tờ bản đồ số 17, bản đồ địa chính xã K, huyện P có vị trí phía Bắc giáp mương; Phía Đông giáp đất nhà ông L1; Phía Nam giáp đường tỉnh lộ; Phía Tây giáp phần diện tích còn lại thửa đất số 232a của ông C. ông Nguyễn Phi L có trách nhiệm làm thủ tục với các cơ quan có thẩm quyền, để được cấp lại GCNQSD đất đối với thửa đất này.

3. Giao thửa đất số 232a, diện tích 56m2 trên đất có 01 ngôi nhà ba tầng; có tứ cận cụ thể như sau: Phía Đông giáp thửa 232b; phía Tây giáp nhà văn hóa phố cầu C, phía Bắc giáp đất ao nhà ông L1; phía Nam giáp đường tỉnh lộ 261c cho bà Ngọ Thị T2 quản lý sử dụng. Bà T2 phải có trách nhiệm làm các thủ tục với các cơ quan có thẩm để được cấp lại GCNQSD đất đối với thửa đất này.

4. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng TMCP Đ1 buộc ông Nguyễn Phi L trả cho Ngân hàng TMCP Đ1 số tiền cả gốc và lãi tính đến ngày 27/9/2023 là: 485.015.121 đồng (Bốn trăm tám mươi lăm triệu, không trăm mười lăm nghìn, một trăm hai mốt đồng); trong đó số tiền gốc 241.677.000 đồng; lãi trong hạn 37.890.233 đồng; lãi quá hạn: 205.447.888 đồng.

- Buộc ông Nguyễn Phi L thanh toán số tiền lãi, phạt phí phát sinh theo lãi suất trong hạn, lãi suất quá hạn theo hợp đồng tín dụng: 14142244.01.02.2016/HĐTD kỳ ngày 01/02/2016 kể từ ngày 27/9/2023 cho tới khi thanh toán xong toàn bộ khoản nợ.

- Kể từ ngày bản án của Tòa án có hiệu lực thi hành, nếu ông Nguyễn Phi L không thực hiện nghĩa vụ thanh toán khoản nợ nêu trên thì Ngân hàng TMCP Đ1 có quyền yêu cầu cơ quan thi hành án dân sự tiến hành kê biên, phát mại toàn bộ tài sản bảo đảm để xử lý, thu hồi nợ cho Ngân hàng, tài sản bảo đảm là toàn bộ quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất cụ thể như sau: Toàn bộ thửa đất số 232b, tờ bản đồ số 17, diện tích 56m2; địa chỉ tại: xã K, huyện P, tỉnh Thái Nguyên.

- Nếu số tiền thu được từ bán/xử lý tài sản bảo đảm vẫn không đủ trả nợ cho Ngân hàng TMCP Đ1. Ông Nguyễn Phi L vẫn phải tiếp tục thực hiện nghĩa vụ trả nợ cho Ngân hàng cho đến khi tất toán toàn bộ khoản vay.

5. Về án phí: ông Nguyễn văn N, bà Trịnh Thị T1 phải liên đới nộp 300.000đ đồng; ông Nguyễn Phi L phải nộp 23.400.000đ án phí DSST vào ngân sách nhà nước (Được trừ vào số tiền 2.750.000đ tiền tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án đã nộp tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Phú Bình theo biên biên lai số 0000019 ngày 16/12/2017); Hoàn trả Ngân hàng TMCP Đ1 số tiền 6.900.000đ tiền tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án theo biên lai số 0001037 ngày 19/02/2020.

6. Về chi phí tố tụng: Buộc ông Nguyễn Phi L phải trả số tiền 10.000.000đ chi phí cho việc thẩm định, định giá tài sản cho Ngân hàng TMCP Đ1.

- Kể từ ngày án có hiệu lực pháp luật, Ngân hàng TMCP Đ1 có đơn yêu cầu thi hành án đối với số tiền chi phí tố tụng, nếu ông Nguyễn Phi L không tự nguyện thi hành số tiền trên, thì lãi suất phát sinh do chậm trả tiền được xác định theo thỏa thuận của các bên nhưng không được vượt quá mức lãi suất được quy định tại khoản 1 Điều 468 của BLDS; Nếu không có thỏa thuận thì thực hiện theo quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ Luật dân sự.

7. Quyền kháng cáo: Đương sự có mặt có quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; Đương sự vắng mặt có quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án, hoặc bản án được niêm yết tại UBND xã (thị trấn), là nơi cư trú cuối cùng của người vắng mặt.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2, Luật Thi hành án dân sự, người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

36
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất số 26/2023/DS-ST

Số hiệu:26/2023/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Phú Bình - Thái Nguyên
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 29/09/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về