TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG THÁP
BẢN ÁN 24/2024/DS-PT NGÀY 23/01/2024 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG CHUYỂN NHƯỢNG QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT
Trong các ngày 18/01/2024 và 23/01/2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Tháp xét xử phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số 258/2023/TLPT-DS ngày 09 tháng 10 năm 2023 về Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất;
Do Bản án dân sự sơ thẩm số 11/2023/DS-ST ngày 03 tháng 4 năm 2023 của Tòa án nhân dân huyện LV bị kháng cáo;
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 422/2023/QĐ-PT ngày 15 tháng 11 năm 2023 giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Đặng Quốc D, sinh năm 1986;
Địa chỉ: Số nhà 543, Lô A, tuyến dân cư Khóm 2, thị trấn LV, huyện LV, tỉnh Đồng Tháp.
Người đại diện theo ủy quyền của anh D là: Bà Đinh Thúy D1, sinh năm 1963. Địa chỉ: Số nhà 137, Khóm 4, thị trấn LV, huyện LV, tỉnh Đồng Tháp (Theo văn bản ủy quyền ngày 23/10/2023).
- Bị đơn: Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên phát triển đô thị TN.
Người đại diện theo pháp luật: Ông Nguyễn Đình K – chức vụ: Giám đốc Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên phát triển đô thị TN. Địa chỉ: Số nhà 321D, Khóm 2, thị trấn LV, huyện LV, tỉnh Đồng Tháp.
Người đại diện theo ủy quyền của ông Nguyễn Đình K là: Bà Võ Thị Băng G, sinh năm 1957. Địa chỉ: Số nhà 270, khóm Mỹ Tây, thị trấn MT, huyện CL, tỉnh Đồng Tháp (Theo văn bản ủy quyền ngày 14/4/2021).
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
1. Nguyễn Đình T, sinh năm 1974;
Địa chỉ: Số nhà 321D, Khóm 2, thị trấn LV, huyện LV, tỉnh Đồng Tháp.
Người đại diện theo ủy quyền của ông Nguyễn Đình T3 là: Bà Võ Thị Băng G, sinh năm 1957. Địa chỉ: Số 270, khóm Mỹ Tây, thị trấn MT, huyện CL, tỉnh Đồng Tháp (Theo văn bản ủy quyền ngày 14/4/2021).
2. Nguyễn Phước L, sinh năm 1972 (Vắng mặt);
Địa chỉ: Số nhà 342/12, Khóm 4, Phường M, thành phố SĐ, tỉnh Đồng Tháp.
Tạm trú: Số nhà 156, ĐT 848, ấp KN, xã TKĐ, thành phố SĐ, tỉnh Đồng Tháp.
3. Ngân hàng N Việt Nam - Chi nhánh thành phố SĐ;
Người đại diện là: Ông Hoàng Xuân T – Chức vụ: Giám đốc Ngân hàng N Việt Nam - Chi nhánh thành phố SĐ. Địa chỉ: Số nhà 18, đường Trần Hưng Đạo, Khóm 1, Phường H, thành phố SĐ, tỉnh Đồng Tháp (Xin vắng mặt).
4. Lê Thanh H, sinh năm 1963 (Vắng mặt);
Địa chỉ: Số nhà 60, Khóm 1, thị trấn LV, huyện LV, tỉnh Đồng Tháp.
5. Nguyễn Thị Hồng T, sinh năm 1983;
Người đại diện theo ủy quyền của chị Nguyễn Thị Hồng T là: Anh Đặng Quốc D2, sinh năm 1986. Cùng địa chỉ: Số 543, Lô A, tuyến dân cư Khóm 2, thị trấn LV, huyện LV, tỉnh Đồng Tháp (Theo văn bản ủy quyền ngày 25/3/2021).
6. Chi Cục Thi hành án Dân sự huyện LV, tỉnh Đồng Tháp;
Người đại diện theo ủy quyền: Ông Trương Quốc T – Chức vụ: Phó Chi cục trưởng Chi cục Thi hành án Dân sự huyện LV. Địa chỉ: Quốc lộ 80, Khóm 1, thị trấn LV, huyện LV, tỉnh Đồng Tháp (Theo văn bản ủy quyền ngày 06/12/2023, xin vắng mặt).
- Người kháng cáo: Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên phát triển đô thị TN là Bị đơn và ông Nguyễn Đình T3 là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án.
NỘI DUNG VỤ ÁN
- Nguyên đơn ông Đặng Quốc D2 trình bày:
Ngày 04/5/2016 ông Nguyễn Đình T3 có ký hợp đồng chuyển nhượng QSD đất cho ông một nền nhà số 54, lô A, thuộc thửa số 182, tờ bản đồ số 35, diện tích 90m2, tại thị trấn LV, huyện LV do ông Nguyễn Đình T3 đứng tên giấy chứng nhận QSD đất. Sau đó, ông T3 đăng ký biến động thay đổi từ ông T3 thành Công ty TNHH MTV Phát triển đô thị TN và thay đổi thửa đất 182 thành thửa 289. Theo Hợp đồng ngày 04/5/2016 thì giá đất chuyển nhượng là 260.000.000đ, anh đã trả cho Công ty TNHH MTV Phát triển đô thị TN (Viết tắt là Công ty TN) 130.000.000đ. Đến ngày 19/9/2016 Công ty TN có mời ông thỏa thuận nâng giá đất từ 260.000.000đ lên 350.000.000đ, ông cũng đồng ý và cùng ngày ông đã trả cho Công ty TN 90.000.000đ. Đến ngày 20/9/2016 trả thêm 30.000.000đ. Những lần ông đưa tiền đều có làm biên nhận, tổng cộng ông đã trả cho Công ty TN là 250.000.000đ. Sau khi nhận tiền Công ty TN đã giao nền nhà số 54, lô A, thuộc thửa 289, tờ bản đồ 35, diện tích 90m2 cho ông và ông đã cất nhà kiên cố ở từ năm 2016 đến nay. Vì vậy, ông yêu cầu Tòa án công nhận hợp đồng chuyển nhượng QSD đất ngày 04/5/2016 đối với thửa 289 tờ bản đồ 35 và buộc Công ty TN phải hoàn tất thủ tục chuyển nhượng QSD đất thửa 289, tờ bản đồ số 35, diện tích 90m2 (Nền nhà số 54 lô A ngày 4,5m, dài 20m) tại thị trấn LV, huyện LV cho ông đứng tên QSD đất. Ông đồng ý trả cho Công ty TN số tiền còn lại là 100.000.000đ.
Đối với “Tờ thỏa thuận” ngày 11/12/2020 mà Công ty TN nộp cho Tòa án là do ông T3 và ông K uy hiếp ép buột ông ký chứ không phải ông tự nguyện ký. Sau khi ký khoảng chưa tới 10 phút thì ông có trình báo Công an thị trấn LV về việc ông bị anh em ông T3 ép buộc ông ký tên vào Tờ thỏa thuận nêu trên. Tờ thỏa thuận là do ông T3 viết, lúc viết không có ai chỉ có ông, ông T3 và ông Kiệt. Tờ thỏa thuận ông T3 đưa cho ông và Tờ thỏa thuận ông T3 giữ không giống nhau. Do đó, ông không đồng ý với ý kiến của Công ty TN.
- Bị đơn Công ty TN và ông Nguyễn Đình T3 trình bày:
Vào ngày 04/5/2016 ông T3 có ký hợp đồng chuyển nhượng QSD đất cho ông Đặng Quốc D2 nền số 54, lô A, tờ bản đồ số 35 (Nay là thửa 289, tờ bản đồ số 35) diện tích 90m2 tại thị trấn LV, huyện LV với giá 260.000.000đ. Ông T3 có ký biên nhận số tiền 130.000.000đ nhưng thực tế ông D2 chỉ giao 100.000.000đ và hẹn về nhà sẽ đưa thêm 30.000.000đ nhưng đến ngày 20/9/2016 ông D2 mới đưa thêm cho ông T3 30.000.000đ. Do sơ sót nên ông T3 mới ký biên nhận số tiền 30.000.000đ, đáng lẽ ra khi nhận tiền ông T3 không cần làm biên nhận. Đến ngày 19/9/2016 ông T3 và ông D2 có ký văn bản thỏa thuận nâng giá đất và ông T3 có nhận của ông D2 số tiền 90.000.000đ để nâng giá đất, nhưng thực tế ông T3 chỉ nhận của ông D2 130.000.000đ tương đương 50% giá trị hợp đồng. Ngày 11/12/2020 anh D có ký tên thừa nhận Biên nhận 30.000.000đ ngày 20/9/2016 và Biên nhận 90.000.000đ ngày 19/9/2016 là biên nhận khống. Do đó, Công ty TN và ông T3 không đồng ý với yêu cầu của ông D2. Hiện nay giấy chứng nhận QSD đất do Chi Cục Thi hành án dân sự huyện LV đang giữ.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
+ Ngân hàng N Việt Nam – Chi nhánh SĐ trình bày:
Công ty TN không có nợ vay và không có thế chấp tài sản là thửa 289, tờ bản đồ số 35 tại Ngân hàng. Ngân hàng Nông không có tranh chấp hay yêu cầu gì trong vụ án nên xin vắng mặt.
+ Chi Cục Thi hành án dân sự huyện LV trình bày:
Vào khoảng tháng 7/2022 ông Nguyễn Phước Lộc có tự nguyện nộp cho Chi Cục Thi hành án dân sự huyện LV bản chính giấy chứng nhận QSD đất thửa 289, tờ bản đồ 35. Hiện nay thửa đất này vẫn chưa kê biên, cưỡng chế. Ngày 27/4/2023 Chi Cục Thi hành án dân sự huyện LV đã trả lại Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nêu trên cho Công ty TN. Đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định pháp luật.
+ Ông Nguyễn Phước Lộc trình bày:
Trước đây ông có giữ giấy chứng nhận QSD đất thửa 182 nay là thửa 289 tờ bản đồ 35 của Công ty TN để đảm bảo cho khoản tiền mà Công ty TN vay của ông và hợp đồng vay đã được giải quyết bằng bản án số 95/2021/DS-ST của Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Tháp nhưng đến nay vẫn chưa thi hành, nên vào ngày 18/7/2022 ông đã giao giấy chứng nhận QSD đất nêu trên cho Chi Cục Thi hành án dân sự huyện LV. Ông không còn liên quan, không có yêu cầu hay ý kiến gì trong vụ án này.
+ Chị Nguyễn Thị Hồng T trình bày:
Chị là vợ anh Đặng Quốc D2, chị thống nhất theo trình bày của anh D, không trình bày gì thêm và không có yêu cầu gì khác.
+ Ông Lê Thanh Hồng trình bày:
Việc mua bán đất giữa Công ty TN với ông Đặng Quốc D2 không liên quan gì đến ông.
Tại bản án dân sự sơ thẩm số 11/2023/DS-ST ngày 03/4/2023 của Tòa án nhân dân huyện LV đã xử:
1. Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của ông Đặng Quốc D2.
Công nhận Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày 04/5/2016 giữa ông Đặng Quốc D2 với ông Nguyễn Đình T3. Buộc ông Nguyễn Đình T3 và Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên phát triển đô thị TN liên đới thực hiện Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất đối với thửa đất số 182 nay là thửa 289 tờ bản đồ số 35 diện tích 90m2, đất tọa lạc tại khóm 2, thị trấn LV, huyện LV, tỉnh Đồng Tháp cho ông Đặng Quốc D2.
Ông Đặng Quốc D2 được tiếp tục sử dụng diện tích 90m2 thuộc thửa đất 289 tờ bản đồ số 35, tọa lạc tại khóm 2, thị trấn LV, huyện LV, tỉnh Đồng Tháp từ mốc M1, M2, M3, M4 về mốc M1.
2. Khi bản án có hiệu lực pháp luật, các đương sự có nghĩa vụ đến cơ quan Nhà nước có thẩm quyền về quản lý đất đai để kê khai, đăng ký, điều chỉnh Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo bản án đã tuyên đối với thửa đất 289, tờ bản đồ số 35, đất tọa lạc tại khóm 2, thị trấn LV, huyện LV, tỉnh Đồng Tháp, do Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên phát triển đô thị TN đứng tên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật.
(Kèm theo sơ đồ đo đạc tranh chấp số 25/SĐ/CNVP.ĐKĐĐ 2021 của Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai huyện LV ngày 24/3/2021).
3. Buộc ông Đặng Quốc D2 trả cho Công ty TNHH MTV Phát triển đô thị TN và ông Nguyễn Đình T3 số tiền 100.000.000đ (một trăm triệu đồng).
Ngoài ra, bản án còn tuyên về án phí, chi phí tố tụng khác, quyền và thời hạn kháng cáo, quyền, nghĩa vụ và thời hiệu thi hành án của các đương sự theo quy định của pháp luật.
Sau khi xét xử sơ thẩm, ngày 12/4/2023 và 14/4/2023 Công ty TN và ông Nguyễn Đình T3 làm đơn kháng cáo Bản án sơ thẩm. Không đồng ý tiếp tục thực hiện hợp đồng chuyển nhượng cho ông D2 vì ông T3 chỉ nhận số tiền 130.000.000đ. Việc Tòa án cấp sơ thẩm tuyên ông D2 đồng ý trả cho Công ty TNHH MTV phát triển đô thị TN số tiền 100.000.000đ là không phù hợp với giá đất tại thời điểm hiện nay và theo Chứng thư thẩm định giá số 0738/22/CTTĐ-VAAE-HCM, ngày 09/8/2022 thì giá đất hiện nay là 19.410.000đ/m2. Yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm sửa Bản án sơ thẩm, chấp nhận đơn kháng cáo của Công ty TN và ông Nguyễn Đình T3, không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Nguyên đơn, không công nhận hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho ông D2.
Tại phiên tòa phúc thẩm, các đương sự vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện và kháng cáo của mình, không thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án.
Vị đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đồng Tháp phát biểu ý kiến Viện kiểm sát về việc tuân theo pháp luật ở giai đoạn phúc thẩm:
+ Về tố tụng: Thẩm phán chủ tọa phiên tòa cũng như Hội đồng xét xử, Thư ký và các đương sự có mặt tại phiên tòa đều chấp hành đúng quy định của Bộ luật Tố tụng Dân sự.
+ Về nội dung: Đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của Công ty TN và ông Nguyễn Đình T3, giữ nguyên Bản án sơ thẩm và điều chỉnh lại cách tuyên án.
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
[1] Xét Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày 04/5/2016 giữa ông Nguyễn Đình T3 với ông Đặng Quốc D2 đối với nền nhà số 54, lô A thuộc thửa đất số 182, tờ bản đồ số 35 (Nay là thửa 289), diện tích 90m2, tại thị trấn LV, huyện LV với giá 260.000.000đ và được UBND thị trấn LV chứng thực. Đến ngày 19/9/2016 Công ty TN và ông D2 thỏa thuận nâng giá đất từ 260.000.000đ lên 350.000.000đ.
Ngày 04/5/2016 ông D2 đã trả cho Công ty TN số tiền 130.000.000đ; ngày 19/9/2016 ông D2 tiếp tục trả thêm 90.000.000đ; ngày 20/9/2016 ông D2 trả thêm 30.000.000đ (Các lần trả đều có làm biên nhận), tổng cộng ông D2 đã trả cho Công ty TN là 250.000.000đ.
Việc ông D2 đã trả tiền cho Công ty TN và Công ty TN đã giao đất cho ông D2 quản lý, sử dụng. Đồng thời, ông D2 đã xây dựng nhà ở cấp 4 kiên cố trên đất từ năm 2016 cho đến nay, phía Công ty TN cũng không có ý kiến, tranh chấp. Cho thấy, hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa ông D2 và ông T3 (Công ty TN) là phù hợp với quy định của pháp luật. Do đó, việc ông D2 yêu cầu Công ty TN và ông Nguyễn Đình T3 tiếp tục thực hiện Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày 04/5/2016 đối với thửa 289 tờ bản đồ số 35 là có căn cứ.
[2] Xét việc Công ty TN và ông T3 kháng cáo cho rằng chỉ nhận của ông D2 số tiền là 130.000.000đ. Lý do, vào ngày 11/12/2020 hai bên đã làm Tờ thỏa thuận trong đó ông D2 đã thừa nhận chỉ trả cho ông T3 130.000.000đ, còn thiếu lại 130.000.000đ, đối với biên nhận ngày 19/9/2016 nhận 90.000.000đ và biên nhận 30.000.000đ là biên nhận khống. Tuy nhiên, ông D2 không thừa nhận mà cho rằng việc ông D2 ký vào “Tờ thỏa thuận” Tờ thỏa thuận ngày 11/12/2020 là do ông bị ông T3 và ông K ép buộc, nên sau khi ký tên ông đã đến Công an thị trấn LV để trình báo. Đồng thời, tại Công văn số 07/CV-CATT ngày 14/01/2022 Công an thị trấn LV đã xác định ngày 11/12/2020 ông D2 có đến Công an thị trấn LV trình báo là bị ông K và ông T3 đe dọa, khống chế, ép buộc ông D2 ký vào tờ thỏa thuận ngày 11/12/2020. Đối với “Tờ thỏa thuận” ngày 11/12/2020 do ông T3 cung cấp cho Tòa án và “Tờ thỏa thuận” (Bản phô tô có xác nhận của Công an thị trấn LV) do ông D2 cung cấp cho Tòa án cũng không giống nhau về nội dung, cụ thể:
+ Đối với “Tờ thỏa thuận” ngày 11/12/2020 do ông T3 cung cấp cho Tòa án có nội dung:
“ông T3 cam kết trong vòng 100 ngày sẽ ký chuyển nhượng cho ông D2”...
“Thị trấn LV ngày 11/12/2020”...
“* Phụ chú: Ông D2 cam kết rút đơn tại Tòa” “3/ Người chứng kiến xác nhận thỏa thuận giữa ông T3 và ông D2” (Ký tên Lê Phước Khen, Phạm Văn Hiền).
Đối với “Tờ thỏa thuận” do ông D2 cung cấp cho Tòa án có nội dung:
“ông T3 cam kết trong vòng 10 ngày sẽ ký chuyển nhượng cho ông D2”...
Và không có nội dung:
“Thị trấn LV ngày 11/12/2020”...
“* Phụ chú: Ông D2 cam kết rút đơn tại Tòa” “3/ Người chứng kiến xác nhận thỏa thuận giữa ông T3 và ông D2” (Ký tên Lê Phước Khen, Phạm Văn Hiền).
Từ đó, cho thấy ông T3 đã viết thêm các nội dung nêu trên vào Tờ thỏa thuận.
+ Đối với người làm chứng là ông Phan Văn Hiền trình bày là ông T3 có nhờ ông Hiền ký tên vào tờ giấy làm chứng nhưng không biết tờ giấy gì và nội dung gì, giữa ông T3 với ông D2 có tranh chấp gì thì ông Hiền cũng không biết.
+ Đối với ông Khen Tòa cấp sơ thẩm cũng đã triệu tập nhiều lần theo địa chỉ mà bên Bị đơn cung cấp để làm rõ nhưng không được.
Mặt khác, tại phiên tòa người đại diện theo ủy quyền của Công ty TN và ông T3 cũng thừa nhận sau khi ông D2 và ông T3 ký tên xong mới đưa cho người làm thuê cho ông T3 là ông Khen và ông Hiền ký tên vào “Tờ thỏa thuận” ngày 11/12/2020 với tư cách là người làm chứng chứ hai người này không trực tiếp chứng kiến và biết nội dung vụ việc. Vì vậy, ông D2 cho rằng ông bị ép buộc ký vào “Tờ thỏa thuận” ngày 11/12/2020 là có căn cứ.
[3] Xét việc Công ty TN và ông T3 kháng cáo cho rằng Tòa án cấp sơ thẩm tuyên ông D2 đồng ý trả cho Công ty TNHH MTV phát triển đô thị TN số tiền 100.000.000đ là không phù hợp với giá đất tại thời điểm hiện nay và theo Chứng thư thẩm định giá số 0738/22/CTTĐ-VAAE-HCM, ngày 09/8/2022 thì giá đất là 19.410.000đ/m2 là không phù hợp. Bởi vì, căn cứ vào Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày 04/5/2016 giữa ông Nguyễn Đình T3 với ông Đặng Quốc D2 thì tại khoản 2 Điều 2 của Hợp đồng có thỏa thuận phương thức thanh toán bằng tiền mặt 130.000.000đ ngay khi ký xong hợp đồng, còn lại 130.000.000đ thanh toán sau khi bên B nhận được giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Việc ông D2 chưa nhận được giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là do lỗi của Công ty TN và ông T3. Vì vậy, ông D2 chỉ phải trả số tiền chuyển nhượng còn lại 100.000.000đ mà không phải bồi thường thiệt hại cho Công ty TN và ông T3. Mặt khác, theo Biên bản định giá ngày 24/3/2021 của Hội đồng định giá thì đất tranh chấp có giá là 2.800.000đ/m2. Còn Chứng thư thẩm định giá nêu trên là do Công ty TN tự đi thuê thẩm định giá mà không được ông D2 đồng ý là không phù hợp.
[4] Tại Tòa án cấp phúc thẩm Chi cục Thi hành án Dân sự huyện LV cung cấp cho Tòa án Biên bản về việc giao, nhận tài sản giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ngày 27/4/2023 thể hiện Chi cục Thi hành án Dân sự huyện LV đã giao trả cho Công ty TN giấy chứng nhận quyền sử đất đối với thửa 289, tờ bản đồ số 35 tranh chấp nêu trên. Tuy nhiên, người đại diện Công ty TN và ông T3 cho rằng Công ty TN đã thế chấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đang tranh chấp để vay tiền ngân hàng. Hội đồng xét xử đã ngừng phiên tòa và yêu cầu ông T3 và Công ty TN cung cấp chứng cứ để chứng minh cho lời trình bày của mình nhưng cũng không cung cấp được.
Ngoài ra, ông T3 và Công ty TN cũng không cung cấp được chứng cứ nào mới để chứng minh cho kháng cáo của mình là có căn cứ và hợp pháp luật nên không được chấp nhận.
Tòa án cấp sơ thẩm xét xử chấp nhận yêu cầu của ông D2 là có căn cứ phù hợp với quy định của pháp luật.
[5] Xét ý kiến đề nghị của vị đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đồng Tháp là có căn cứ, nên Hội đồng xét xử chấp nhận.
Từ những căn cứ nêu trên, Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo Công ty TN và ông Nguyễn Đình T3, giữ nguyên Bản án sơ thẩm. Để thuận tiện cho việc thi hành án Hội đồng xét xử điều chỉnh lại cách tuyên án.
Do giữ nguyên bản án sơ thẩm nên Công ty TN và ông Nguyễn Đình T3 phải chịu án phí dân sự phúc thẩm theo quy định của pháp luật.
Phần của bản án sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị Hội đồng xét xử không xem xét và có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ khoản 1 Điều 308, Điều 147, Điều 148, Điều 91, Điều 157, Điều 165, Điều 227 Bộ luật Tố tụng dân sự; Điều 500, Điều 501, Điều 502, Điều 503 của Bộ luật dân sự; Điều 100, Điều 166, Điều 167, Điều 203 Luật đất đai, Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.
Tuyên xử:
1. Không chấp nhận kháng cáo của Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên phát triển đô thị TN và ông Nguyễn Đình T3.
2. Giữ nguyên bản án dân sự sơ thẩm số 11/2023/DS-ST ngày 03/4/2023 của Tòa án nhân dân huyện LV.
3. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Đặng Quốc D2.
4. Công nhận Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày 04/5/2016 giữa ông Đặng Quốc D2 với ông Nguyễn Đình T3.
5. Buộc ông Nguyễn Đình T3 và Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên phát triển đô thị TN liên đới thực hiện Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất đối với thửa đất số 182 (Nay là thửa 289) tờ bản đồ số 35, diện tích 90m2, tại Khóm 2, thị trấn LV, huyện LV, tỉnh Đồng Tháp cho ông Đặng Quốc D2.
6. Ông Đặng Quốc D2 được tiếp tục sử dụng diện tích 90m2 thuộc thửa đất 289 tờ bản đồ số 35, tại Khóm 2, thị trấn LV, huyện LV, tỉnh Đồng Tháp trong phạm vi các mốc M1, M2, M3, M4, M1.
Các đương sự được đến cơ quan Nhà nước có thẩm quyền để kê khai, đăng ký, quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật. Trường hợp ông Nguyễn Đình T3 và Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên phát triển đô thị TN không giao giấy chứng nhận quyền sử dụng đất để thực hiện hợp đồng chuyển nhượng, đề nghị Cơ quan nhà nước có thẩm quyền thu hồi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với thửa đất 289 tờ bản đồ số 35, tại Khóm 2, thị trấn LV, huyện LV do Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên phát triển đô thị TN đứng tên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất để cấp lại cho ông D2 theo quy định của pháp luật.
(Kèm theo Sơ đồ đo đạc đất tranh chấp số 25/SĐ ĐĐ/CNVP.ĐKĐĐ 2021 của Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai huyện LV ngày 24/3/2021).
7. Ông Đặng Quốc D2 phải trả cho Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên phát triển đô thị TN và ông Nguyễn Đình T3 số tiền 100.000.000đ (Một trăm triệu đồng).
Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án cho đến khi thi hành án xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại Điều 357, Điều 468 của Bộ luật Dân sự năm 2015.
8. Về án phí:
+ Ông Nguyễn Đình T3 phải chịu 300.000đ án phí dân sự phúc thẩm và được trừ vào 300.000đ tiền tạm ứng án phí dân sự phúc thẩm đã nộp theo biên lai số 0015825 ngày 13/4/2023 của Chi cục thi hành án Dân sự huyện LV.
+ Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên phát triển đô thị TN phải chịu 300.000đ án phí dân sự phúc thẩm và được trừ vào 300.000đ tiền tạm ứng án phí dân sự phúc thẩm đã nộp theo biên lai số 0015826 ngày 13/4/2023 của Chi cục thi hành án Dân sự huyện LV.
+ Ông Nguyễn Đình T3 và Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên phát triển đô thị TN phải liên đới chịu 300.000đ án phí dân sự sơ thẩm.
+ Ông Đặng Quốc D2 được nhận lại 300.000đ tiền tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm theo Biên lai số 0010586, ngày 24/11/2020 của Chi cục Thi hành án Dân sự huyện LV.
9. Về chi phí xem xét thẩm định tại chỗ và định giá tài sản:
Ông Nguyễn Đình T3 và Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên phát triển đô thị TN liên đới chịu 2.832.000đ để trả lại cho ông Đặng Quốc D2 do ông D2 đã tạm ứng trước.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án, người phải thi hành án có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./.
Bản án về tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất số 24/2024/DS-PT
Số hiệu: | 24/2024/DS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Đồng Tháp |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Ngày ban hành: | 23/01/2024 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về