Bản án về tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất, chia tài sản sau khi ly hôn số 14/2023/DS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ BÌNH LONG, TỈNH BÌNH PHƯỚC

BẢN ÁN 14/2023/DS-ST NGÀY 09/08/2023 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG CHUYỂN NHƯỢNG QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT, TRANH CHẤP CHIA TÀI SẢN SAU KHI LY HÔN

Tại các ngày 19 tháng 7 và ngày 07/8/2023 tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã Bình Long xét xử sơ thẩm công khai và tuyên án vào ngày 09/8/2023 đối với vụ án hôn nhân và gia đình thụ lý số: 102/2022/TLST-HNGĐ ngày 01 tháng 8 năm 2022 về việc “Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất, tranh chấp chia tài sản sau khi ly hôn”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 08/2023/QĐXX - HNGĐ, ngày 11 tháng 5 năm 2023, giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị T, sinh năm 1978 (Có mặt) Trú tại: Tổ 3, ấp PhL, xã ThL, thị xã BL, tỉnh Bình Phước

Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bà Nguyễn Thị T: Luật sư Nguyễn Thị T – Văn phòng luật sư Dương Chí, thuộc đoàn luật sư tỉnh Bình Phước (Có mặt khi xét xử và vắng mặt khi tuyên án)

 Bị đơn: Ông Đinh Văn Ng, sinh năm 1966 (Có mặt) Trú tại: Tổ 3, ấp PhL, xã ThL, thị xã BL, tỉnh Bình Phước

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1. Ông Võ Văn L, sinh năm 1952 (Xin vắng mặt)

2. Bà Nguyễn Thị B, sinh năm 1958 (Xin vắng mặt)

3. Ông Võ Quốc H, sinh năm 1982 (Xin vắng mặt)

4. Ông Võ Quốc C, sinh năm 1984 (Xin vắng mặt)

6. Bà Võ Thị H, sinh năm 1986 (Xin vắng mặt)

7. Ông Võ Văn Ph, sinh năm 1990 (Xin vắng mặt) Cùng hộ khẩu thường trú: Tổ 3, ấp ThTh, xã ThPh, thị xã BL, tỉnh Bình Phước; cùng Địa chỉ hiện nay: Số 11/3 trệt 4, đường số 6, phường BHH B, quận BT, thành phố Hồ Chí Minh.

- Ủy ban nhân dân thị xã Bình Long.

Người đại diện theo pháp luật: Chủ tịch Ủy ban nhân dân thị xã Bình Long Người đại diện theo ủy quyền: Ông Tô Mạnh H, Phó phòng Tài nguyên và Môi trường thị xã Bình Long (Xin vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện cùng các tài liệu, chứng cứ và các bản khai cũng như lời trình bày tại phiên tòa sơ thẩm nguyên đơn bà Nguyễn Thị T trình bày: Bà Nguyễn Thị T và ông Đinh Văn Ng, quen biết và tự nguyện sống chung với nhau từ tháng 5 năm 2001, có tổ chức lễ cưới, đến tháng 8 năm 2002 đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Thanh Lương, huyện Bình Long nay là thị xã Bình Long, tỉnh Bình Phước. Do cuộc sống vợ chồng có nhiều điểm bất đồng, ông Ng và bà T đã ly hôn theo Bản án hôn nhân và gia đình sơ thẩm số 21/2021/HNGĐ – ST, ngày 30 tháng 9 năm 2021, của Tòa án nhân dân thị xã Bình Long, tỉnh Bình Phước.

Quá trình chung sống có tạo lập được một số tài sản đã chia gồm: Một thửa đất có diện tích 4338m2 tọa lạc tại ấp PhL, xã ThL, thị xã BL, tỉnh Bình Phước đã tự thỏa thuận chia nên không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không đặt ra. Một mảnh đất có diện tích 3253,1m2 thuộc thửa số 8, tờ bản đồ số 13, tọa lạc tại ấp ThB, xã ThL, thị xã BL, tỉnh Bình Phước và toàn bộ tài sản gắn với đất. Nay còn tài sản chưa chia là một mảnh đất có diện tích 11.376m2, ghi trong giấy chứng nhận nay đo đạc thực tế diện tích 13.229,0m2, trong đó có 200m2 đất ở, tọa lạc tại ấp PhL, xã ThL, thị xã BL, tỉnh Bình Phước đã được Ủy ban nhân dân huyện Bình Long nay là thị xã Bình Long, tỉnh Bình Phước cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số N 15XXX, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ngày 12/7/1999 đứng tên hộ Võ Văn L và toàn bộ tài sản gắn với đất. Bà Nguyễn Thị T yêu cầu Tòa án giải quyết “Công nhận hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất” giữa ông Võ Văn L, bà Nguyễn Thị B, ông Võ Quốc H, ông Võ Quốc C, bà Võ Thị H, ông Võ Văn Ph, với gia đình bà Nguyễn Thị T do ông Đinh Văn Ng làm đại diện lập vào ngày 13/6/2009 có giá trị pháp lý (có hiệu lực). Bà Nguyễn Thị T yêu cầu Tòa án giải quyết chia ½ tài sản: Một mảnh đất có diện tích 11.376m2, ghi trong giấy chứng nhận nay đo đạc diện tích 13.229,0m2, trong đó có 200m2 đất ở, tọa lạc tại ấp PhL, xã ThL, thị xã BL, tỉnh Bình Phước đã được Ủy ban nhân dân huyện Bình Long nay là thị xã Bình Long, tỉnh Bình Phước cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số N 15XXX, ngày 12/7/1999 đứng tên hộ Võ Văn L và toàn bộ tài sản gắn với đất.

Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bà Nguyễn Thị T là ông Nguyễn Thị T trình bày: Tại Biên bản lấy lời khai ngày 26/11/2020 (bút lục 58), ông Ngọ cho rằng năm 2009, ông nhận tiền đền bù giải tỏa mặt bằng nhà máy xi măng hơn 700.000.000 đồng, dùng số tiền này để mua 505.000.000 đồng, cũng tại Biên bản lấy lời khai này, ông Ng cho rằng thửa đất này là của riêng ông nên không đồng ý chia; riêng khoảng 300 cây cao su trồng năm 2003 và 300 cây trồng năm 2019; một căn nhà cấp IV có diện tích 160m2 và công trình phụ là tài sản chung nên đồng ý chia. Tại Biên bản lấy lời khai ngày 10/3/2023, ông Ng khai thửa đất và tài sản gắn liền này có nguồn gốc do ông mua bằng tiền của mình có trước khi kết hôn. Nhận thấy: Ông Ng với bà T là vợ cồng, có đăng ký kết hôn vào năm 2002, tại Ủy ban nhân dân xã Thanh Lương. Năm 2009, ông Ng nhận chuyển nhượng thửa đất có diện tích 13.229m2 cùng tài sản gắn liền của hộ gia đình ông Võ Văn L. Như vậy, thửa đất cùng tài sản gắn liền này được tạo dựng trong thời kỳ hôn nhân. Theo Điều 27 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000, thì tài sản chung của vợ chồng gồm tài sản do vợ, chồng tạo ra, thu nhập, do lao động, hoạt động sản xuất kinh doanh và những thu nhập hợp pháp khác của vợ chồng trong thời ký hôn nhân; tài sản mà vợ chồng được thừa kế chung hoặc được tặng cho chung và những tài sản khác mà vợ chồng thỏa thuận là tài sản chung. Quyền sử dụng đất mà vợ chồng có được sau khi kết hôn là tài sản chung của vợ chồng. Quyền sử dụng đất mà vợ hoặc chồng có được trước khi kết hôn, được thừa kế riêng chỉ là tài sản chung khi vợ chồng có thỏa thuận. Tài sản chung của vợ chồng thuộc sở hữu chung hợp nhất. Trong trường hợp không có chứng cứ chứng minh tài sản mà vợ, chồng đang có tranh chấp là tài sản riêng của mỗi bên thì tài sản đó là tài sản chung. Đối chiếu qui định tại Điều 127 Luật đất đai năm 2003 thì thấy ông Ng bà T chưa được Nhà nước công nhận có quyền sử dụng hợp pháp thửa đất đã nhận chuyển nhượng của hộ gia đình ông Võ Văn L. Do đó diện tích 13.229m2 cùng tài sản gắn liền được coi là tài sản được tạo ra trong thời kỳ hôn nhân là tài sản chung của ông Ng và bà T.

Bị đơn ông Đinh Văn Ng trình bày: Thống nhất với lời trình bày của nguyên đơn về thời gian sống chung, quan hệ hôn nhân và nay ông Ng và bà T đã ly hôn theo Bản án hôn nhân và gia đình sơ thẩm số 21/2021/HNGĐ – ST, ngày 30 tháng 9 năm 2021, của Tòa án nhân dân thị xã Bình Long và đã chia một số tài sản. Nay còn một mảnh đất có diện tích 11.376m2, ghi trong giấy chứng nhận nay đo đạc diện tích 13.229,0m2,trong đó có 200m2 đất ở, tọa lạc tại ấp PhL, xã ThL, thị xã BL, tỉnh Bình Phước đã được Ủy ban nhân dân huyện Bình Long nay là thị xã Bình Long, tỉnh Bình Phước, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số N 15XXX, ngày 12/7/1999 đứng tên hộ Võ Văn L và tài sản gắn với đất cây trồng, nhà và công trình phụ là tài sản hình thành trong thời thời kỳ hôn nhân nhưng là có nguồn gốc là nguồn tiền mua mảnh đất là tiền giải tỏa đền bù từ mảnh đất tài sản riêng của ông Đinh Văn Ng có trước thời kỳ hôn nhân nên mảnh đất có diện tích 11.376m2 ghi trong giấy chứng nhận nay đo đạc diện tích 13.229,0m2, nhận sang nhượng của ông Long là tài sản riêng của ông Ng nên ông Ng không đồng ý chia theo yêu cầu của bà T.

Ý kiến ông Võ Văn L, bà Nguyễn Thị B, ông Võ Quốc H, ông Võ Quốc C, bà Võ Thị H và ông Võ Văn Phtrình bày: Vào ngày 13/6/2009 ông Võ Văn L, bà Nguyễn Thị B, ông Võ Quốc H, ông Võ Quốc C, bà Võ Thị H và ông Võ Văn Ph có ký hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho gia đình ông Đinh Văn Ng và bà Nguyễn Thị T do ông Ng làm đại diện ký hợp đồng, một mảnh đất có diện tích 11.376m2, trong đó có 200m2 đất ở, tọa lạc tại ấp PhL, xã ThL, thị xã BL, tỉnh Bình Phước đã được Ủy ban nhân dân huyện Bình Long nay là thị xã Bình Long, tỉnh Bình Phước, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số N 15XXX, ngày 12/7/1999 đứng tên hộ Võ Văn L và tài sản gắn với đất, giá sang nhượng là 505.000.000đ (Năm trăm lẻ năm triệu đồng), gia đình ông L đã nhận dủ tiền và bà giao sổ sách giấy tờ, bàn giao đất và tài sản gắn với đất cho gia đình ông Ng từ năm 2009 đến nay, việc chưa hoàn tất thủ tục sang nhượng là do chính sách của Nhà nước. Nay gia đình ông Ng, bà T sử dụng, canh tác như thế nào gia đình ông L không biết, hiện nay đo đạc diện tích thực tế tăng hay giảm gia đình ông L cùng các thành viên không tranh chấp gì. các ông (bà) ông Võ Văn L, bà Nguyễn Thị B, ông Võ Quốc H, ông Võ Quốc C, bà Võ Thị H và ông Võ Văn Ph xác định đã sang nhượng, đã nhận đủ tiền nay không còn tranh chấp gì với gia đình ông Ng đối với mảnh đất và tài sản gắn với đất nói trên và yêu cầu Tòa án giải quyết và xét xử vắng mặt.

Ý kiến đại diện của Ủy ban nhân dân thị xã Bình Long: Ngày 13/6/2009, ông Đinh Văn Ng và bà Nguyễn Thị T mua lại thửa đất của gia đình ông Võ Văn L, ông L đã được UBND huyện Bình Long (nay là thị xã Bình Long) cấp Giấy chứng nhận QSDĐ số vào sổ cấp GCN 02486, số phát hành N15XXX, cấp ngày 12/7/1999, diện tích 11376 m² có số hiệu và diện tích thửa đất chưa được xác định theo bản đồ địa chính. Ông Ng, bà T chưa đăng ký đất đai, lập thủ tục chuyển nhượng quyền sử dụng đất từ ông L tại cơ quan có thẩm quyền.

Qua kiểm tra hồ sơ, căn cứ mảnh trích đo địa chính ngày 06/3/2023 của Chi nhánh văn phòng Đăng ký đất đai thị xã Bình Long thì Giấy chứng nhận QSD đất đã cấp cho hộ ông Nguyễn Văn L chồng lên phần diện tích đất lâm nghiệp của ban quản lý rừng phòng hộ Minh Đức tại thời điểm cấp giấy. Như vậy, việc cấp giấy CNQSD đất cho ông L không đúng quy định pháp luật và thuộc trường hợp phải thu hồi giấy CNQSD đất quy định tại khoản 2 điều 106 Luật đất đai năm 2013 được hướng dẫn tại khoản 4 điều 87 Nghị định 43/2014/NĐ-CP có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2014 và được sử đổi bổ sung tại khoản 56 điều 2 Nghị định 01/2017/NĐ-CP có hiệu lực thi hành từ ngày 03/3/2017 và khoản 26 điều 1 Nghị định 148/2020/NĐ-CP có hiệu lực thi hành từ ngày 08/02/2021 của Chính Phủ. Hiện phần đất trên, UBND tỉnh Bình Phước đã giao UBND thị xã Bình Long quản lý theo quyết định số 3429/QĐ - UBND ngày 7/12/2009 của UBND tỉnh Bình Phước. hiện tại, khu đất trên được quy hoạch là đất trồng cây lâu năm. Việc giao đất đối với các trường hợp thuộc quỹ đất nông nghiệp tách ra khỏi lâm phần theo quy hoạch 3 loại rừng trên địa bản tỉnh Bình Phước (trong đó có thửa đất trên) được quy định tại quyết đinh số 08/2017/QĐ-UBND ngày 09/02/2017 của UBND tỉnh Bình Phước; Nghị quyết 09/2019/NQ-HĐND ngày 05/7/2019 của Hội đồng nhân dân tỉnh Bình Phước. Trường hợp ông Đinh Văn Ng và bà Nguyễn Thị T mua lại thửa đất của gia đình ông Võ Văn L năm 2009 (sau ngày 01/01/2008), nếu giấy CNQSD đất của hộ ông L bị thu hồi thì ông Ng, bà T sẽ không đủ điều kiện cấp giấy CNQSD đất quy định tại khoản 54 điều 2 Nghị định số 01/2017/NĐ-CP có hiệu lực thi hành từ ngày 03/3/2017 mà phải làm thủ tục chuyển quyền sử dụng đất từ ông Võ Văn L.

Kiểm sát viên phát biểu tại phiên tòa: Thẩm phán, Hội đồng xét xử đã tuân thủ đúng quy định của pháp luật tố tụng dân sự trong quá trình giải quyết vụ án, người tham gia tố tụng chấp hành đúng quy định. Về nội dung vụ án bà Nguyễn Thị T yêu cầu tranh chấp tài sản chung sau ly hôn với bị đơn ông Đinh Văn Ng, đương sự có cùng địa chỉ ấp PhL, xã ThL, thị xã BL, tỉnh Bình Phước. Một thửa đất có diện tích 11.376m2, trong đó có 200m2 đất ở, tọa lạc tại ấp PhL, xã ThL, thị xã BL, tỉnh Bình Phước đã được Ủy ban nhân dân huyện Bình Long cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số N 15XXX, ngày 12/7/1999 đứng tên hộ Võ Văn L, cùng toàn bộ tài sản gắn với đất. Công nhận hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa ông Đinh Văn Ng và bà Nguyễn Thị T với gia đình ông Võ Văn L, bà Nguyễn Thị B, ông Võ Quốc H, ông Võ Quốc C, bà Võ Thị H, ông Võ Văn Ph, lập vào ngày 07/6/2009 là có hiệu lực.

- Đối với yêu cầu chia tài sản chung do hiện nay tài sản quyền sử dụng đất chưa có đủ điều kiện chia nên bà Tịnh xin rút yêu cầu chia tài sản chung nên đề nghị Hội đồng xét xử đình chỉ yêu cầu của bà Nguyễn Thị T chia ½ tài sản diện tích 11.376m2, trong đó có 200m2 đất ở, ghi trong giấy chứng nhận nay đo đạc diện tích 13.229,0m2, trong đó có 200m2 đất ở nông thôn, tọa lạc tại ấp PhL, xã ThL, thị xã BL, tỉnh Bình Phước đã được Ủy ban nhân dân huyện Bình Long cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số N 15XXX, ngày 12/7/1999 đứng tên hộ Võ Văn L.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa; căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng: Theo đơn khởi kiện của nguyên đơn bà Nguyễn Thị T yêu cầu Tòa án giải quyết “Công nhận hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất” giữa ông Võ Văn L, bà Nguyễn Thị B, ông Võ Quốc H, ông Võ Quốc C, bà Võ Thị H, ông Võ Văn Phvới gia đình bà Nguyễn Thị T do ông Đinh Văn Ng làm đại diện lập vào ngày 13/6/2009 có giá trị pháp lý (có hiệu lực) và bà Nguyễn Thị T yêu cầu Tòa án giải quyết chia ½ tài sản: Một mảnh đất có diện tích 11.376m2 ghi trong giấy chứng nhận nay đo đạc diện tích 13.229,0m2, trong đó có 200m2 đất ở nông thôn, tọa lạc tại ấp PhL, xã ThL, thị xã BL, tỉnh Bình Phước đã được Ủy ban nhân dân huyện Bình Long, tỉnh Bình Phước cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số N 15XXX, ngày 12/7/1999 đứng tên hộ Võ Văn L và tài sản gắn với đất cây trồng, nhà và công trình phụ. Hội đồng xét xử xác định quan hệ pháp luật là “Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất, tranh chấp chia tài sản sau khi ly hôn”, theo quy định tại Điều 51, 58 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014, căn cứ quy định tại khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thị xã Bình Long, tỉnh Bình Phước.

Tại các phiên tòa ông Tô Mạnh Hà là người đại diện theo ủy quyền của Ủy ban nhân dân thị xã Bình Long, các đương sự ông Võ Văn L, bà Nguyễn Thị B, ông Võ Quốc H, ông Võ Quốc C, bà Võ Thị Hvà ông Võ Văn Phvắng mặt và có đơn yêu cầu xét xử vắng mặt; Căn cứ theo quy định tại Điều 227, Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự Tòa án xét xử vắng mặt đối với các đương sự.

[2] Nội dung của vụ án: Bà Nguyễn Thị T và ông Đinh Văn Ng, quen biết và tự nguyện sống chung với nhau từ tháng 5 năm 2001, có tổ chức lễ cưới, đến tháng 8 năm 2002 đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Thanh Lương, huyện Bình Long nay là thị xã Bình Long, tỉnh Bình Phước. Do cuộc sống vợ chồng có nhiều điểm bất đồng, ông Ngọ và bà Tịnh đã ly hôn với nhau theo Bản án hôn nhân và gia đình sơ thẩm số 21/2021/HNGĐ – ST, ngày 30 tháng 9 năm 2021, của Tòa án nhân dân thị xã Bình Long, tỉnh Bình Phước. Qúa trình chung sống chung bà Tịnh và ông Ngọ tạo lập được các tài sản diện tích 4338m2 tọa lạc tại ấp PhL, xã ThL, thị xã BL, tỉnh Bình Phước và diện tích 3253,1m2 thuộc thửa số 8, tờ bản đồ số 13, tọa lạc tại ấp ThB, xã ThL, thị xã BL, tỉnh Bình Phước và toàn bộ tài sản gắn với hai thửa đất. Tài sản này đã chia.

Đối với tài sản còn lại chưa chia gồm một mảnh đất có diện tích 11.376m2, trong đó có 200m2 đất ở nông thôn, tọa lạc tại ấp PhL, xã ThL, thị xã BL, tỉnh Bình Phước đã được Ủy ban nhân dân huyện Bình Long nay là thị xã Bình Long, tỉnh Bình Phước cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số N 15XXX, ngày 12/7/1999 đứng tên hộ Võ Văn L và toàn bộ tài sản gắn với đất, ghi trong giấy chứng nhận nay đo đạc thực tế diện tích 13.229,0m2, theo sơ đồ đo đạc ngày 3/3/2023 được phê duyệt ngày 06/3/2023 của Chi nhánh văn phòng đăng ký đất đai thị xã Bình Long.

Bà Nguyễn Thị T yêu cầu Tòa án giải quyết “Công nhận hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất” giữa ông Võ Văn L, bà Nguyễn Thị B, ông Võ Quốc H, ông Võ Quốc C, bà Võ Thị H, ông Võ Văn Ph, với gia đình bà Nguyễn Thị T do ông Đinh Văn Ng làm đại diện lập vào ngày 13/6/2009 có hiệu lực. Do mảnh đất hiện nay chưa hoàn tất thủ tục sang nhượng nên bà Nguyễn Thị T xin rút phần yêu cầu Tòa án giải quyết chia ½ tài sản chung đối với một mảnh đất có diện tích 11.376m2, trong đó có 200m2 đất ở nông thôn, tọa lạc tại ấp PhL, xã ThL, thị xã BL, tỉnh Bình Phước đã được Ủy ban nhân dân huyện Bình Long, tỉnh Bình Phước cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số N 15XXX, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ngày 12/7/1999 đứng tên hộ Võ Văn L, diện tích đo đạc thực tế diện tích 13.229,0m2 và tài sản gắn với đất.

Ông Đinh Văn Ng không đồng ý với yêu cầu của bà Nguyễn Thị T, ông Ng xác định vào ngày 13/6/2009 có ký hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất” với gia đình ông Võ Văn L, bà Nguyễn Thị B, ông Võ Quốc H, ông Võ Quốc C, bà Võ Thị H và ông Võ Văn Ph, nhận chuyển nhượng một mảnh đất có diện tích 11.376m2, trong đó có 200m2 đất ở nông thôn, tọa lạc tại ấp PhL, xã ThL, thị xã BL, tỉnh Bình Phước đã được Ủy ban nhân dân huyện Bình Long, tỉnh Bình Phước cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số N 15XXX, cấp ngày 12/7/1999 đứng tên hộ Võ Văn L, diện tích đo đạc thực tế diện tích 13.229,0m2 và tài sản gắn với đất, ông Ng đã trả đủ tiền và nhận đất canh tác từ trước đến nay. Do bị vướng thủ tục pháp lý nên thời gian qua không sang tên giấy chứng nhận, ông Ng không đồng ý chia tài sản chung theo yêu cầu của bà Tịnh, ông Ng đồng ý xin được giao đất, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là tài sản riêng của ông Ng.

[3] Xét yêu cầu của nguyên đơn bà Nguyễn Thị T yêu cầu Tòa án giải quyết “Công nhận hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất” giữa ông Võ Văn L, bà Nguyễn Thị B, ông Võ Quốc H, ông Võ Quốc C, bà Võ Thị H, ông Võ Văn Phvới gia đình bà Nguyễn Thị T do ông Đinh Văn Ng làm đại diện lập vào ngày 13/6/2009 có có hiệu lực: Một mảnh đất có diện tích 11.376m2, trong đó có 200m2 đất ở nông thôn,thuộc thửa số 00, tờ bản đồ số 00, tọa lạc tại ấp PhL, xã ThL, thị xã BL, tỉnh Bình Phước, đã được Ủy ban nhân dân huyện Bình Long, tỉnh Bình Phước cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số N 15XXX, ngày 12/7/1999 đứng tên hộ Võ Văn L và tài sản gắn với đất. Khi nhận sang nhượng các bên có đến làm thủ tục và có đến Ủy ban nhân dân xã Thanh Lương, huyện Bình Long nay là thị xã Bình Long, tỉnh Bình Phước làm thủ tục sang nhượng đất, sau khi ký hợp đồng xong mới phát hiện đất bị tạm ngừng giao dịch do bị cấp đất trồng với khu vực đất lâm trường minh Đức. Bên gia đình ông L đã nhận đủ tiền sang nhượng và bàn giao đất.

Gia đình ông L xác định đã sang nhượng cho gia đình ông Ng và bà T mảnh đất nói trên và đã nhận đủ tiền 505.000.000 đồng và đã bàn giao đất, tài sản gắn với đất cho gia đình ông Ng, bà T từ năm 2009 đến nay, việc chưa hoàn tất thủ tục sang nhượng là do chính sách của Nhà nước. Nay gia đình ông Ng, bà T sử dụng, canh tác như thế nào gia đình ông L không biết, hiện nay đo đạc diện tích thực tế tăng 13.229,0m2 hay giảm gia đình ông L cùng các thành viên không tranh chấp gì. Các ông (bà) ông Võ Văn L, bà Nguyễn Thị B, ông Võ Quốc H, ông Võ Quốc C, bà Võ Thị H và ông Võ Văn Ph xác định đã sang nhượng, đã nhận đủ tiền nay không còn tranh chấp gì với gia đình ông Ng, bà T đối với mảnh đất và tài sản gắn với đất nói trên và yêu cầu Tòa án giải quyết và xét xử vắng mặt. Hội đồng xét xử xét thấy việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số N 15XXX, cấp theo Quyết định số 1999/QĐ –UB ngày 12/7/1999 cho hộ ông Võ Văn L là trường hợp cấp chồng lên đất thuộc quyền quản lý của Ban quản lý rừng phòng hộ Minh Đức trước đây nên các bên chưa thực hiện hoàn tất việc chuyển nhượng. Việc các bên không thể hoàn tất các thủ tục sang nhượng là do việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số N 15XXX, cấp theo Quyết định số 1999/QĐ – UB ngày 12/7/1999 cho hộ ông Võ Văn L là trường hợp cấp chồng lên đất thuộc quyền quản lý của Ban quản lý rừng phòng hộ Minh Đức là do Việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nói trên có sai sót do Ủy ban nhân dân dẫn đến các bên không thể hoàn tất thủ tục sang nhượng nay các bên sang nhượng và nhận sang nhượng đã thanh toán đủ tiền và ông Ng, bà T đã nhận đất canh tác từ năm 2009 đến nay, ông L không có yêu cầu hủy hợp đồng, không có nhu cầu nhận lại đất canh tác nên việc cấp đổi giấy chứng nhận hay giao đất cho hộ ông Võ Văn L là không phù hợp. Cho nên Hội đồng xét xử xét thấy Ủy ban nhân dân thị xã Bình Long, Cơ quan có thẩm quyền có nghĩa vụ xem xét các thủ tục giao đất hoặc cấp giấy chứng nhận cho ông Đinh Văn Ng và bà Nguyễn Thị T diện tích 13.229,0m2, trong đó có 200m2 đất ở nông thôn, tọa lạc tại ấp PhL, xã ThL, thị xã BL, tỉnh Bình Phước, theo sơ đồ đo đạc ngày 03/3/2023 được phê duyệt ngày 06/3/2023 của Chi nhánh văn phòng đăng ký đất đai thị xã Bình Long là phù hợp với đối tượng sử dụng đất, phù hợp với quy định của pháp luật. Yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Thị T có căn cứ được Hội đồng xét xử chấp nhận.

[4] Bà Nguyễn Thị T xin rút phần yêu cầu Tòa án giải quyết chia ½ tài sản chung đối với một mảnh đất có diện tích 11.376m2, ghi trong giấy chứng nhận nay đo đạc diện tích 13.229,0m2, tọa lạc tại ấp PhL, xã ThL, thị xã BL, tỉnh Bình Phước đã được Ủy ban nhân dân huyện Bình Long cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số N 15XXX, cấp ngày 12/7/1999 đứng tên hộ Võ Văn L và tài sản gắn với đất cây trồng, nhà và công trình phụ. Hội đồng xét xử đình chỉ yêu cầu chia tài sản chung của bà Nguyễn Thị T.

[5] Ông Ng cho rằng mảnh đất có diện tích 11.376m2, trong đó có 200m2 đất ở nông thôn, thuộc thửa số 00, tờ bản đồ số 00, tọa lạc tại ấp PhL, xã ThL, thị xã BL, tỉnh Bình Phước, đã được Ủy ban nhân dân huyện Bình Long, tỉnh Bình Phước cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số N 15XXX, ngày 12/7/1999 đứng tên hộ Võ Văn L và tài sản gắn nay đo đạc diện tích 13.229,0m2 là tài sản riêng của ông Ng, tiền mua đất là do nhận tiền đền bù tài sản riêng của ông Ng có trước thời kỳ hôn nhân tuy nhiên ông Ng cũng thừa nhận khi nhận chuyển nhượng của gia đình ông L mảnh đất có diện tích 11.376m2, nay đo đạc diện tích 13.229,0m2, khi nhận chuyển nhượng đất trong thời kỳ hôn nhân, sau đó ông Ng và bà T cùng nhau sửa sang nhà, sân, bếp và các công trình phụ khác, canh tác trồng thêm cao su, cùng nhau khai thác cho đến khi hai người sống ly thân và ly hôn ngoài ra theo lời khai của ông Võ Văn L thì trước khi sang nhượng bà T là người đến hỏi mua đất, sau đó ông Ng đến ký hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất như vậy ông Ng cho rằng tài sản riêng là không phù hợp nên không được Hội đồng xét xử chấp nhận. Trong vụ án này bà T đã rút yêu cầu chia tài sản chung nên khi nào có yêu cầu xem xét chia tài sản chung thì đương sự có nghĩa vụ chứng minh về phần công sức đóng góp trong khối tài sản chung để chia theo quy định của pháp luật.

[5] Về chi phí tố tụng: Căn cứ theo quy định tại Điều 157 và Điều 165 của Bộ luật tố tụng dân sự. Chi phí xác minh, thu thập chứng cứ, chí phí xem xét, thẩm định tại chỗ và định giá tài sản là 5.000.000 đồng. Bà Nguyễn Thị T chịu được trừ vào tiền tạm ứng chí phí xem xét, thẩm định tại chỗ và định giá tài sản đã nộp theo phiếu thu ngày 20/11/2022 của Tòa án nhân dân thị xã Bình Long. Trả lại cho bà Nguyễn Thị T 2.000.000 đồng tiền tạm ứng chi phí xác minh, thu thập chứng cứ, chí phí xem xét, thẩm định tại chỗ và định giá tài sản còn dư.

[7] Về án phí: Căn cứ vào Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự, Điều 26 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án thì ông Võ Văn L, bà Nguyễn Thị B, ông Võ Quốc H, ông Võ Quốc C, bà Võ Thị H, ông Võ Văn Ph chịu 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm, bà Nguyễn Thị T tự nguyện nộp thay.

Vì các lẽ trên.

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ vào các Điều 227, Điều 228, Điều 28, Điều 35, khoản 1 Điều 39, Bộ luật tố tụng dân sự.

- Căn cứ vào các Điều 106, Điều 107 và Điều 108 Bộ luật dân sự năm 2005, các Điều 59, Điều 62 và Điều 81 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014.

- Căn cứ vào các Điều 117, Điều 129, Điều 500, Điều 501, Điều 502 và Điều 503 của Bộ luật dân sự năm 2015.

Tuyên xử:

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Nguyễn Thị T.

2. Công nhận hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa ông Đinh Văn Ng với gia đình ông Võ Văn L, bà Nguyễn Thị B, ông Võ Quốc H, ông Võ Quốc C, bà Võ Thị H, ông Võ Văn Ph, lập vào ngày 07/6/2009 là có hiệu lực pháp luật. Ông Đinh Văn Ng và bà Nguyễn Thị T có toàn quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật đối với một mảnh đất có diện tích 13.229,0m2, trong đó có 200m2 đất ở, tọa lạc tại ấp PhL, xã ThL, thị xã BL, tỉnh Bình Phước, theo sơ đồ đo đạc ngày 03/3/2023 được phê duyệt ngày 06/3/2023 của Chi nhánh văn phòng đăng ký đất đai thị xã Bình Long.

3. Ủy ban nhân dân thị xã Bình Long, tỉnh Bình Phước xét giao đất cho ông Đinh Văn Ng và bà Nguyễn Thị T phần đất có diện tích 13.229,0m2, trong đó có 200m2 đất ở, tọa lạc tại ấp PhL, xã ThL, thị xã BL, tỉnh Bình Phước, theo sơ đồ đo đạc ngày 03/3/2023 được phê duyệt ngày 06/3/2023 của Chi nhánh văn phòng đăng ký đất đai thị xã Bình Long.

4. Ông Đinh Văn Ng và bà Nguyễn Thị T có nghĩa vụ liên hệ với Ủy ban nhân dân thị xã Bình Long, cơ quan cấp có thẩm quyền để tiến hành các thủ tục đề nghị xét giao đất cho ông Đinh Văn Ng và bà Nguyễn Thị T mảnh đất có diện tích 13.229,0m2, trong đó có 200m2 đất ở nông thôn, tọa lạc tại ấp PhL, xã ThL, thị xã BL, tỉnh Bình Phước, theo sơ đồ đo đạc ngày 3/3/2023 được phê duyệt ngày 06/3/2023 của Chi nhánh văn phòng đăng ký đất đai thị xã Bình Long.

- Điều kiện trong thời hạn 2 (Hai) tháng kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật nếu các bên ông Đinh Văn Ng và bà Nguyễn Thị T không phối hợp để làm thủ tục xin xét giao đất ông Đinh Văn Ng và bà Nguyễn Thị T mảnh đất có diện tích 13.229,0m2, trong đó có 200m2 đất ở nông thôn, tọa lạc tại ấp PhL, xã ThL, thị xã BL, tỉnh Bình Phước. Thì một trong các bên ông Đinh Văn Ng hoặc bà Nguyễn Thị T có quyền tiến hành làm thủ tục đề nghị Ủy ban nhân dân thị xã Bình Long, cơ quan có thẩm quyền xét giao đất hộ ông Đinh Văn Ng hoặc hộ bà Nguyễn Thị T đối với phần đất có diện tích 13.229,0m2, trong đó có 200m2 đất ở nông thôn, tọa lạc tại ấp PhL, xã ThL, thị xã BL, tỉnh Bình Phước.

- Đương sự có nghĩa vụ giao nộp cho Ủy ban nhân dân thị xã Bình Long; Cơ quan có thẩm quyền bản chính giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số N 15XXX, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ngày 12/7/1999 đứng tên hộ Võ Văn L để làm thủ tục xét giao đất ông Đinh Văn Ng và bà Nguyễn Thị T.

- Trong trường hợp các đương sự không giao nộp bản chính giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số N 15XXX, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ngày 12/7/1999 đứng tên hộ Võ Văn L thì Ủy ban nhân dân thị xã Bình Long; Cơ quan có thẩm quyền tiến hành các thủ tục theo quy định của pháp luật hủy bỏ giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số N 15XXX, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ngày 12/7/1999 đứng tên hộ Võ Văn L.

3- Đình chỉ yêu cầu của bà Nguyễn Thị T đề nghị chia ½ tài sản diện tích 11.376m2, trong đó có 200m2 đất ở, tọa lạc tại ấp PhL, xã ThL, thị xã BL, tỉnh Bình Phước đã được Ủy ban nhân dân huyện Bình Long cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số N 15XXX, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ngày 12/7/1999 đứng tên hộ Võ Văn L.

4. Về chi phí tố tụng: Căn cứ theo quy định tại Điều 157 và Điều 165 của Bộ luật tố tụng dân sự. Chi phí xác minh, thu thập chứng cứ, chí phí xem xét, thẩm định tại chỗ và định giá tài sản là 5.000.000 đồng. Bà Nguyễn Thị T chịu được trừ vào tiền tạm ứng chí phí xem xét, thẩm định tại chỗ và định giá tài sản đã nộp theo phiếu thu ngày 20/11/2022 của Tòa án nhân dân thị xã Bình Long. Trả lại cho bà Nguyễn Thị T 2.000.000 đồng tiền tạm ứng chi phí xác minh, thu thập chứng cứ, chí phí xem xét, thẩm định tại chỗ và định giá tài sản còn dư.

5. Về án phí: Căn cứ theo quy định tại Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự, Điều 26 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án, ông Võ Văn L, bà Nguyễn Thị B, ông Võ Quốc H, ông Võ Quốc C, bà Võ Thị H, ông Võ Văn Phchịu 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm, bà Nguyễn Thị T tự nguyện nộp thay được trừ vào tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu số 0002700 ngày 26/7/2022 của Chi Cục Thi hành án dân sự thị xã Bình Long.

6. Quyền kháng cáo: Nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, những người vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ nhận được bản án hoặc ngày bản án được tống đạt hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

347
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất, chia tài sản sau khi ly hôn số 14/2023/DS-ST

Số hiệu:14/2023/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Bình Long - Bình Phước
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành:09/08/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về