Bản án về tranh chấp hợp đồng chuyển đổi đất nông nghiệp số 01/2024/DS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH VĨNH PHÚC

BẢN ÁN 01/2024/DS-PT NGÀY 05/01/2024 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG CHUYỂN ĐỔI ĐẤT NÔNG NGHIỆP

Ngày 05 tháng 01 N 2024 tại trụ sở Toà án nhân dân tỉnh V xét xử phúc thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 119/2023/TLPT- DS ngày 09 tháng 11 N 2023 về việc “Tranh chấp hợp đồng chuyển đổi đất nông nghiệp”.

Do bản án dân sự sơ thẩm số 28/2023/DS-ST ngày 11 tháng 8 năm 2023 của Toà án nhân dân huyện V, tỉnh V bị kháng cáo.

Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm 156/2023/QĐ - PT ngày 14 tháng 12 N 2023 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn:

+ Ông Lê Văn T, sinh năm 1959;

Địa chỉ: Thôn P A, xã T, huyện V, V; (có mặt).

+ Bà Lê Thị S, sinh năm 1951.

Địa chỉ: Thôn P A, xã T, huyện V, V; (có mặt).

+ Bà Lê Thị Thanh T, sinh năm 1977.

Địa chỉ: Thôn P A, xã T, huyện V, V; (có mặt).

+ Ông Lương Văn H, sinh năm 1965.

Địa chỉ: Thôn P A, xã T, huyện V, V; (có mặt).

+ Bà Lê Thị C, sinh năm 1950.

Địa chỉ: Thôn P A, xã T, huyện V, V.

Người đại diện theo ủy quyền của bà Lê Thị C: Anh Lê Quốc H, sinh N 1976; địa chỉ: Thôn P A, xã T, huyện V, V (theo giấy ủy quyền ngày 08/8/2022); (có mặt).

2. Bị đơn: Ông Trần Văn V, sinh năm 1968.

Địa chỉ: Thôn P A, xã T, huyện V, V; (có mặt).

3. Người có quyền L, nghĩa vụ liên quan:

- Bà Lê Thị Kim T1, sinh năm 1970.

Địa chỉ: Tổ dân phố Hồ Xuân Hương, thị trấn V, huyện V, tỉnh V; (vắng mặt).

- Chị Trần Thị T2, sinh năm 1993.

Địa chỉ: Tổ dân phố 6, phường T, quận N, TP.Hà Nội; (vắng mặt).

- Ông Lương Đình M, sinh năm 1942.

Địa chỉ: Thôn P B, xã T, huyện V, V.

- Bà Lương Thị N, sinh năm 1949.

Địa chỉ: Nhà số 4, phố V, phường Đ, quận B, TP.Hà Nội.

- Bà Lương Thị T3, sinh năm 1956.

Địa chỉ: Đội 9, thôn P, xã T, huyện V, V.

- Bà Lương Thị H1, sinh năm 1960.

Địa chỉ: Thôn N, xã V, huyện V, tỉnh V.

Người đại diện theo ủy quyền của ông M, bà N, bà T3, bà H1: Ông Lương Văn H, sinh N 1965; địa chỉ: Thôn P A, xã T, huyện V, V (theo văn bản ủy quyền ngày 20/5/2022); (có mặt).

- Bà Lê Thị Thanh H2, sinh N 1971.

Địa chỉ: Thôn P A, xã T, huyện V, V; (vắng mặt).

- Chị Lương Thị Thu T4, sinh năm 1990; (vắng mặt).

- Anh Lương Quang H3, sinh năm 1992; (vắng mặt).

- Bà Bùi Thị Lý, sinh năm 1966; (vắng mặt).

- Anh Lương Xuân T5, sinh năm 1978; (vắng mặt).

- Anh Lương Đình C, sinh năm 1985; (vắng mặt).

Cùng địa chỉ: Thôn P A, xã T, huyện V, V.

- Ông Nguyễn Văn T6, sinh năm 1958.

- Anh Nguyễn Văn M, sinh năm 1980.

- Anh Nguyễn Văn T7, sinh năm 1990.

Cùng địa chỉ: Thôn P A, xã T, huyện V, V.

Người đại diện theo ủy quyền của ông T6, anh M, anh T7: Bà Lê Thị S; địa chỉ: Thôn P A, xã T, huyện V, V (theo các giấy ủy quyền cùng ngày 09/8/2022); (có mặt).

- Cháu Nguyễn Quang H4, sinh N 2007.

Người đại diện hợp pháp của cháu H: Chị Lê Thị T4, sinh N 1988 (mẹ cháu H); cùng địa chỉ: Thôn P A, xã T, huyện V, V; (vắng mặt).

- Anh Lê Quốc H4, sinh N 1976.

Địa chỉ: Thôn P A, xã T, huyện V, V; (có mặt).

- Anh Lê Quốc H5, sinh N 1981.

- Anh Lê Văn T8, sinh N 1971.

- Anh Lê Tiến L, sinh N 1973.

- Ông Lê Gia T9, sinh N 1949.

Cùng địa chỉ: Thôn P A, xã T, huyện V, V.

Người đại diện theo ủy quyền của anh H5, anh T8, anh L, ông T9: Anh Lê Quốc H4, sinh N 1976; địa chỉ: Thôn P A, xã T, huyện V, V (theo các giấy ủy quyền cùng ngày 08/8/2022); (có mặt).

- Bà Hoàng Thị C, sinh N 1945.

- Anh Lê Văn V, sinh N 1986.

- Chị Lê Thị T10, sinh N 1979 Cùng địa chỉ: Thôn P A, xã T, huyện V, V.

Người đại diện theo ủy quyền của bà C, anh V, chị T10: Chị Lê Thị Thanh T, sinh N 1977; địa chỉ: Thôn P A, xã T, huyện V, V (theo văn bản ủy quyền ngày 08/8/2022); (có mặt).

- Anh Lê Văn H7, sinh N 1981.

Địa chỉ: Thôn P A, xã T, huyện V, V; (vắng mặt).

- Bà Trần Thị M1, sinh N 1963.

- Ông Lê Văn T11, sinh N 1962.

Cùng địa chỉ: Thôn P A, xã T, huyện V, V.

Người đại diện theo ủy quyền của bà M1, ông T11: Ông Lê Văn T, sinh N 1959; địa chỉ: Thôn P A, xã T, huyện V, V (theo văn bản ủy quyền ngày 20/5/2022 và ngày 08/8/2022) ; (có mặt).

- Chị Lê Thị Đ, sinh N 1991.

Địa chỉ: Thôn P A, xã T, huyện V, V; (vắng mặt).

- Chị Lê Thị Ngọc L1, sinh N 1989.

Địa chỉ: Thôn T, xã L, huyện V, tỉnh V; (vắng mặt).

4. Người làm chứng: Ông Nguyễn Văn T12, sinh N 1951.

Địa chỉ: Xóm 5, xã T, huyện V, tỉnh V; (có mặt).

5. Người kháng cáo: Các đồng nguyên đơn là ông Lê Văn T, bà Lê Thị S, bà Lê Thị Thanh T, ông Lương Văn H và bà Lê Thị C.

6. Viện kiểm sát kháng nghị: Không.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện đề ngày 24/7/2019, những lời khai tiếp theo nguyên đơn là ông Lê Văn T, bà Lê Thị Thanh T, ông Lương Văn H, bà Lê Thị S và bà Lê Thị C lần lượt trình bày:

Nguyên đơn ông Lê Văn T đồng thời là người đại diện theo ủy quyền của ông Lê Văn Th, bà Trần Thị M trình bày:

Gia đình ông được Nhà nước chia đất nông nghiệp theo Nghị định 64-CP được 7 sào (2.520m2) đất nông nghiệp, tại thời điểm chia đất gia đình ông gồm có 06 khẩu là mẹ đẻ ông bà Lê Thị T, ông Lê Văn T, vợ ông là Trần Thị M, các con ông là anh Lê Văn K, sinh N 1987, chị Lê Thị Ngọc L, sinh N 1989, chị Lê Thị Đ, sinh N 1991. Mẹ đẻ ông là cụ Lê Thị T chết năm 2019 không để lại di chúc, cụ T sinh được 02 người con là ông Lê Văn T và em ông là Lê Văn Th, sinh N 1962 ở thôn P A, xã T, huyện V, tỉnh V. Con ông là anh Lê Văn K, sinh N 1987 đã chết năm 1997 khi đó mới được 10 tuổi chưa có vợ con.

Trong số đất nông nghiệp này nhà ông có 02 thửa đất nông nghiệp ở xứ đồng Gò Cao, xã T, huyện V, tỉnh V, cả hai thửa này đều T2ộc tờ bản đồ số 18, trong đó thửa số 333.3 có diện tích là 324 m2; thửa số 251 có diện tích là 168 m2. Tổng cộng 02 thửa đất này là 492 m2. Khoảng N 2001 để T2ận tiện cho việc canh tác cấy lúa trồng màu gia đình ông có đổi cho gia đình ông Trần Văn V 02 thửa đất nêu trên lấy thửa đất số 48.1, tờ bản đồ 18 diện tích 1 sào 3 thước sứ đồng Mả De = 432m2 và 2,5 thước đất Đám mạ = 60m2. Ông không nhớ ngày tháng đổi đất chỉ nhớ khoảng N 2001, khi đổi hai bên không làm văn bản và không báo Ch quyền địa phương. Sau khi đổi đất xong gia đình nhà ông canh tác đất của ông V, còn đất của ông, ông V dùng để đổi cho ông H và những người khác để đào ao, thả cá làm T4 trại. Khi đổi đất thì ông là người đóng T2ế đất nông nghiệp ở xứ đồng Mả De, còn ông V thì đóng T2ế nông nghiệp ở xứ đồng Ổ Quy. Khi đổi đất không thỏa T2ận về thời hạn, đến N 2018 tập đoàn S T2 mua đất nông nghiệp trong đó có diện tích đất Nông nghiệp ông đã đổi cho ông V, ông yêu cầu ông V trả lại nH5 ông V không trả. Nay ông khởi kiện yêu cầu Tòa án buộc ông Trần Văn V trả lại toàn bộ diện tích 1 sào 5,5 thước đất nông nghiệp đã đổi ở Ổ Quy = 492m2 và gia đình ông sẽ trả lại diện tích 1 sào 3 thước ở Mả De và 2,5 thước đất đám mạ = 492m2 .

Nguyên đơn bà Lê Thị Thanh T đồng thời là người đại diện theo ủy quyền của bà Hoàng Thị C, anh Lê Văn V, chị Lê Thị T11 trình bày:

Gia đình bà được Nhà nước chia đất nông nghiệp theo nghị định 64 được 4 sào, tại thời điểm chia đất gia đình bà gồm có 05 khẩu là bố chị ông Lê Văn Quỳnh (chết năm 2019) mẹ bà là bà Hoàng Thị C, sinh được 4 người con là bà Lê Thị Thanh T, ông Lê Văn Hương, ông Lê Văn V, bà Lê Thị Thắm. Sau khi bố bà chết ngày 15/10/2019 gia đình có họp và chia cho bà thửa đất số 250.3 tờ bản đồ số 18 diện tích 204m2 ở xứ đồng Ổ Quy, thôn P A, xã T, huyện V, tỉnh V. Khoảng N 2001 để T2ận tiện cho việc canh tác cấy lúa trồng màu gia đình bà có đổi cho gia đình ông Trần Văn V thửa đất này lấy thửa đất số 250.3 tờ bản đồ số 185 diện tích 120 m 2 ở xứ đồng Gò Cao, T2ộc thôn P A, xã T, huyện V. Khi đổi hai bên chỉ nói miệng, hiện bà không nhớ ngày tháng N đổi. Khi đổi không có giấy tờ và không thông báo Ch quyền địa phương. Sau khi đổi gia đình nhà bà có canh tác đất của gia đình ông V. T2ế trước đây nhà nào vẫn đóng của nhà đấy, từ N 2010 thì được đã miễn T2ế, T L phí gia đình bà vẫn đóng theo sổ sách. Ruộng của nhà bà đổi ông V thì ông V đã đào ao thả cá cho đến bây giờ. Khi đổi đất không thỏa T2ận về thời hạn, đến N 2018 tập đoàn S T2 mua đất nông nghiệp để làm khu đô thị, bà yêu cầu ông V trả lại thửa đất đã đổi nH5 ông V không trả. Nay bà khởi kiện yêu cầu Tòa án buộc ông Trần Văn V trả lại toàn bộ diện tích 204m2 đất nông nghiệp đã đổi ở Ổ Quy và gia đình bà sẽ trả lại diện tích 120 m2 đất ở Gò Cao.

Nguyên đơn Lương Văn H và vợ là bà Lê Thị Thanh H2 thống nhất trình bày: Năm 1993 thực hiện nghị định 64 về chia đất nông nghiệp, gia đình ông được chia khoảng hơn 6 sào, trong đó có thửa đất số 249.1, tờ bản đồ số 18 diện tích 204m2 ở xứ đồng Ổ Quy, thôn P A, xã T, huyện V, tỉnh V.

Diện tích đất này là tiêu chuẩn của mẹ ông, vợ chồng và các con ông gồm: Mẹ ông bà Lê Thị C, sinh N 1912 (chết năm 2011); vợ ông Lê Thị Thanh H2, sinh N 1971; Con Lương Thị T2 T4, sinh N 1990; Con Lê Quang H3, sinh N 1992.

Khoảng N 2001 để T2 thuận tiện cho việc canh tác cấy lúa trồng màu gia đình ông có đổi thửa đất này lấy 7 thước sứ đồng Gò Cao thửa số 333.3, tờ bản đồ số 18 của gia đình ông V = 168 m2. Hiện ông không nhớ ngày tháng N đổi, nH5 thống nhất chỉ đổi đến N 2013 là đổi lại. Khi đổi không có giấy tờ và không báo Ch quyền địa phương. Sau khi đổi gia đình ông canh tác đất nhà ông V liên tục đến N 2018 khi tập đoàn S T2 mua ruộng thì gia đình không canh tác nữa. T2ế trước đây nhà nào vẫn đóng của nhà đấy, từ N 2010 thì đã miễn T2ế. T L phí gia đình ông vẫn đóng theo sổ sách. Thửa đất của nhà ông đổi ông V thì ông V đào ao thả cá làm T4 trại và sử dụng cho đến bây giờ. Nay ông khởi kiện yêu cầu ông V trả lại toàn bộ diện tích 8,5 thước đất nông nghiệp đã đổi ở Ổ Quy = 204m2 và gia đình ông sẽ trả lại diện tích 7 thước đất ở Gò Cao =168 m2.

Bố mẹ ông là cụ Lê Thị C (chết năm 2011) và cụ Lương Văn M (chết năm 1988), trước khi chết các cụ không để lại giấy tờ hay di chúc gì, hai cụ được 06 người con là ông Lương Văn M, bà Lương Thị N, ông Lương Đình Chiến, Lương Thị T3, Lương Thị H1 và ông Lương Văn H. Ông Chiến chết năm 2019 có vợ là bà Bùi Thị Lý và có 02 người con là Lương Xuân T5 và Lương Đình C.

Nguyên đơn bà Lê Thị S đồng thời là người đại diện theo ủy quyền của những người có quyền L nghĩa vụ liên quan là ông Nguyễn Văn T6, anh Nguyễn Văn M, anh Nguyễn Văn T7 trình bày:

Năm 1993 thực hiện nghị định 64 về chia đất nông nghiệp, gia đình bà được chia khoảng 06 sào, trong đó có thửa đất số 334, tờ bản đồ số 18 diện tích 204m2 ở xứ đồng Ổ Quy. Diện tích đất này là tiêu chuẩn của vợ chồng và con bà gồm: Bà Lê Thị S, chồng bà Nguyễn Văn T6, sinh N 1958, con trai là Nguyễn Văn M, sinh N 1980, Nguyễn Văn T, sinh N 1983 và Nguyễn Văn T7, sinh N 1990. N 2001 để T2ận tiện cho việc canh tác cấy lúa trồng màu gia đình bà có đổi thửa đất này của gia đình lấy thửa đất số 251, tờ bản đồ số 18 diện tích 144 m2 đất của ông V T2ộc xứ đồng Gò Cao. Khi đổi hai bên chỉ nói miệng, không có làm văn bản. Sau khi đổi đất gia đình bà canh tác đất của ông Vân, còn thửa đất của bà ông Vân đã đào ao thả cá làm T4 trại, khi đổi đất không thỏa T2ận về thời hạn đổi, chỉ nói khi nào Nhà nước T2 hồi thì trả lại đất cho nhau. N 2018 khi tập đoàn S T2 mua ruộng có gọi gia đình bà ra để thỏa T2ận bán thửa đất trên cho T đoàn S nH5 ông V có đơn tranh chấp nên tập đoàn S không chi trả tiền cho gia đình bà.

Nay bà khởi kiện yêu cầu ông V trả lại toàn bộ thửa đất số 334, tờ bản đồ số 18 diện tích 204m2 đất nông nghiệp ở xứ đồng Ổ Quy, bà sẽ trả lại cho ông V thửa đất số 251, tờ bản đồ số 18 diện tích 144 m2 T2ộc xứ đồng Gò Cao. Trong 03 người con của bà thì anh T chết năm 2021 có vợ là Lê Thị T4 (chị T4 đã ly hôn với anh T trước khi anh T chết) và có 01 người con là Nguyễn Quang H, sinh N 2007.

Anh Lê Quốc H là người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn là bà Lê Thị C, đồng thời là người có quyền L nghĩa vụ liên quan, là người đại diện theo ủy quyền của ông Lê Gia Trị, anh Lê Văn T8, anh Lê Văn L, Lê Quốc H5 trình bày:

Năm 1993 thực hiện nghị định 64 về chia đất nông nghiệp, gia đình bà C được chia khoảng 04 sào 03 thước đất, trong đó có đất ở diện tích 360m2 ở xứ đồng Ổ Quy T2 số thửa 338, tờ bản đồ số 18. Diện tích đất này là tiêu chuẩn của vợ chồng và con bà C gồm: Bà Lê Thị C, chồng bà Lê Gia Trị, sinh N 1949, con trai là Lê Văn T8, sinh N 1971, Lê Văn L, sinh N 1973, Lê Quốc H, sinh N 1976 và Lê Quốc H5, sinh N 1981. Khoảng N 2001 để T2ận tiện cho việc canh tác cấy lúa trồng màu gia đình bà C có đổi cho gia đình ông Lê Văn V thửa đất này lấy thửa đất số 251, tờ bản đồ số 18, diện tích 240 m2 đất của ông V T2ộc xứ đồng Gò Cao. Khi đổi hai bên chỉ nói miệng, không có giấy tờ. Sau khi đổi đất, gia đình bà C canh tác đất của ông Vân, còn thửa đất của bà C ông V đã đào ao thả cá làm T4 trại gia đình bà C có biết nH5 không có ý kiến gì. N 2018 khi tập đoàn S T2 mua đất nông nghiệp ở xử đồng Ổ Quy để làm khu đô thị, bà C yêu cầu ông V trả lại đất nH5 ông V không trả. Nay bà C khởi kiện yêu cầu ông V trả lại toàn bộ diện tích 360 m2 đất ở xứ đồng Ổ Quy T2ộc thửa đất số 18, số thửa 338 còn bà sẽ trả lại cho ông V thửa đất số 251, tờ bản đồ số 18 diện tích 240 m2 T2ộc xứ đồng Gò Cao.

Bị đơn là ông Trần Văn V trình bày:

N 2001, gia đình ông thực hiện chủ trương dồn điền, đổi thửa tập trung đất nông nghiệp về một chỗ để chuyển đổi mô hình làm T4 trại phát triển kinh tế nông nghiệp. Để có đủ diện tích đất để làm T4 trại ở xứ đông Ổ Quy T2ộc xã T, huyện V, tỉnh V, gia đình ông đã tiến hành đổi đất cho rất nhiều gia đình trong đó có gia đình ông T, ông H, bà S, bà C, bà T cụ thể như sau:

Đổi đất với gia đình ông Lê Văn T: Đổi thửa đất có diện tích 1 sào 3 thước sứ đồng Mả de T2ộc thửa số 48.1 tờ bản đồ số 18 và 2,5 thước đất đám mạ tổng cộng = 492m2 lấy 01 sào 5,5 thước đất nông nghiệp ở xứ đồng Gò Cao T2ộc 02 thửa đất số 333.3 có diện tích là 324 m2; thửa số 251 có diện tích là 168 m2 của gia đình ông T.

Đổi đất với gia đình chị Lê Thị Thanh T: Đổi 5 thước sứ đồng Gò Cao thửa số 250.3 tờ bản đồ 18 = 120 m2 đất nông nghiệp lấy 7,5 thước = 204m2 đất nông nghiệp ở xứ đồng Ổ Quy, T2ộc thửa đất số 250.3 tờ bản đồ 18, của gia đình chị Lê Thị Thanh T.

Đổi đất với gia đình ông Lương Văn H: Đổi 7 thước đất ở sứ đồng Gò Cao thửa số 333.3 tờ bản đồ 18 =168 m2 đất nông nghiệp, lấy 8,5 thước = 204m2 đất nông nghiệp ở xứ đồng Ổ Quy của gia đình ông Lương Văn H.

Đổi đất với gia đình bà Lê Thị S: Đổi thửa đất số 251, tờ bản đồ số 18 diện tích 144 m2 đất ở xứ đồng Gò Cao lấy thửa đất số 334 tờ bản đồ số 18 diện tích 204m ở xứ đồng Ổ Quy của gia đình bà Lê Thị S.

Đổi đất với gia đình bà Lê Thị C: Đổi thửa đất số 251, tờ bản đồ số 18, diện tích 240 m2 đất của ông V T2ộc xứ đồng Gò Cao lấy thửa 338, tờ bản đồ số 18 diện tích 360m2 ở xứ đồng Ổ Quy ở xã T của gia đình bà Lê Thị C.

Trong các thửa đất đã đổi cho các hộ trên, diện tích đổi cho gia đình ông T là đổi tương đương, còn hộ ông H, bà C, bà S, chị T mặc dù diện tích nhiều hơn, nH5 đổi lấy diện tích ít hơn của gia đình ông, vì đất của gia đình ông là đất loại I, thâm canh được 03 vụ, 02 vụ lúa, 01 vụ màu/N, trong khi đó đất của các hộ ông H, bà S, bà C, chị T ở xứ đồng Ổ Quy chỉ cấy được một vụ, còn lại ngập nước không canh tác được. Tại thời điểm đổi đất với nhau hai bên chỉ nói bằng miệng, mãi đến N 2011 ông xây lều trại để trông cá UBND bắt phải có văn bản đổi đất của các hộ trên, nên ông mới lập hợp đồng chuyển đổi và xin chứng thực của UBND xã T. Sau khi đổi đất cho các gia đình trên xong hai bên đã tiến hành canh tác trên thực địa, gia đình ông T, ông H, chị T, bà C, bà S đã canh tác trên đất của gia đình ông. Trong số đất đổi cho gia đình ông T, ông dùng để đổi cho gia đình ông H và một số hộ dân khác, còn đất của gia đình ông H, chị T, bà C, bà S ông gom lại và tiến hành cải tạo, T2ê nhân công đào ao thả cá làm T4 trại, việc ông đào ao thả các làm T4 trại các gia đình đều biết và không có ý kiến gì, việc sử dụng đất này ổn định suốt từ những N đó, có những N ngập lụt, mua lũ lớn ông mất trắng toàn bộ sản lượng nuôi thả cá không ai có ý kiến gì. N 2018 tập đoàn S muốn mua ruộng để thực hiện dự án thì các hộ muốn lấy lại để bán cho tập đoàn S để được nhiều tiền hơn, vì vậy mới khởi kiện ông ra Tòa án. Ông đề nghị Tòa án xem xét không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của các đồng nguyên đơn, vì việc đổi đất này đã được thực hiện xong trên thực tế và các hộ đã sử dụng ổn định từ N 2001 đến nay. Vì vậy, ông không đồng ý với toàn bộ yêu cầu khởi kiện của các đồng nguyên đơn.

Người có quyền L nghĩa vụ liên quan bà Trần Thị M và chị Lê Thị Đ trình bày: Bà M là vợ của ông Lê Văn T, chị Đ là con của ông T và bà M. Gia đình ông T bà M được chia ruộng theo nhân khẩu cũng như quá trình đổi ruộng cho ông V như ông T trình bày là đúng, bà M và chị Đ hoàn toàn đồng ý với ý kiến trình bày của ông T không có ý kiến bổ sung gì. Đối với yêu cầu khởi kiện của các đồng nguyên đơn bà M và chị Đ đề nghị tòa án chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của những người này trong đó có yêu cầu của ông T. Vì điều kiện công việc đi làm ăn xa đề nghị Tòa án xem xét giải quyết vắng mặt theo quy định.

Người có quyền L nghĩa vụ liên quan ông Lê Văn Th trình bày: Bố mẹ ông là cụ Lê Văn T6 và Lê Thị T sinh được 02 người con là ông và ông Lê Văn T. N 1985 ông lập gia đình và ra ở riêng, do vi phạm nghĩa vụ quân sự nên ông không được chia đất nông nghiệp theo nghị định 64. Sau khi cụ T6 chết cụ T ở với ông T và được chia ruộng vào nhà ông T. Năm 2019 cụ T chết không để lại di chúc. Đối với lời trình bày của ông T ông hoàn toàn nhất trí không có ý kiến gì, đối với tiêu chuẩn đất Nông nghiệp của cụ T chết để lại ông không có ý kiến gì, tự nguyện để lại cho ông T toàn quyền sử dụng vì điều kiện tuổi cao, sức yếu ông đề nghị Tòa án xem xét giải quyết vắng mặt theo quy định.

Người có quyền L nghĩa vụ liên quan bà Hoàng Thị C, chị Lê Thị Thắm anh Lê Văn V và anh Lê Văn Hương trình bày: Bà C, anh V, chị Thắm, anh Hương thống nhất với lời trình bày của chị T. Thửa đất số 250.3 tờ bản đồ số 18 diện tích 204m2 ở xứ đồng Ổ Quy, thôn P A, xã T, huyện V, tỉnh V gia đình đã họp và chia cho chị T, đối với thửa đất này bà C, anh V, chị Thắm, anh Hương không có ý kiến gì. Việc Chị T đổi thửa đất nêu trên cho ông V lấy 5 thước đất ở sứ đồng Gò Cao là có thật. Nay chị T khởi kiện yêu cầu ông V trả lại toàn bộ diện tích 204 m2 đất nông nghiệp đã đổi ở Ổ Quy và gia đình chị T sẽ trả lại diện tích 120 m2 đất ở Gò Cao đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật.

Người có quyền L, nghĩa vụ liên quan là ông Lương Đình M, bà Lương Thị H1, bà Lương Thị T3 và bà Lương Thị N trình bày: Ông bà thừa nhận toàn bộ lời trình bày của ông H và bổ sung như sau: Năm 1993 chia lại đất Nông nghiệp theo nghị định số 64 thì cụ C ở với ông H và được chia đất Nông nghiệp vào cùng hộ nhà ông H, còn các ông bà có gia đình riêng và được chia đất Nông nghiệp ở nơi khác. Năm 1993 thực hiện nghị định 64 về chia đất nông nghiệp, gia đình ông H được chia khoảng hơn 6 sào, trong đó có thửa đất số 249.1, tờ bản đồ số 18 diện tích 204m2 ở xứ đồng Ổ Quy. Diện tích đất này là tiêu chuẩn của cụ C, vợ chồng các con ông H gồm: Cụ Lê Thị C, ông Lương Văn H, bà Lê Thị Thanh H2, chị Lương Thị T2 T4, anh Lê Quang H3. N 2011 cụ C chết không để lại di chúc và có để lại suất đất nông nghiệp nằm trong hộ gia đình ông H, đối với phần diện tích đất Nông nghiệp này của cụ C ông bà không lấy và đồng ý để lại cho ông H toàn quyền sử dụng, định đoạt không có ý kiến gì. Đối với việc đổi đất giữa ông H và ông V các ông bà không rõ cụ thể nội dung như thế nào, việc đổi đất hay không là quyền của ông H, các ông bà không có ý kiến. Nay H khởi kiện yêu cầu ông V trả lại toàn bộ diện tích 8,5 thước đất nông nghiệp đã đổi ở Ổ Quy = 204m2 và gia đình ông H sẽ trả lại diện tích 7 thước đất ở Gò Cao =168 m2, ông bà đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật. Vì điều kiện tuổi cao sức yếu các ông bà đề nghị tòa án giải quyết vắng mặt ông bà theo quy định.

Người có quyền L, nghĩa vụ liên quan là chị Lương Thị T2 T4 và anh Lương Quang H3 trình bày: Anh H3, chị T4 là con của ông Lương Văn H và bà Lê Thị Thanh H2. Anh chị hoàn toàn đồng ý với ý kiến của ông H, việc đổi đất nông nghiệp giữa gia đình ông H với ông V là có thật, nay ông H khởi kiện yêu cầu ông V trả lại toàn bộ diện tích 8,5 thước đất nông nghiệp đã đổi ở Ổ Quy = 204m2 và gia đình ông H sẽ trả lại diện tích 7 thước đất ở Gò Cao =168 m2, anh H3, chị T4 đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật. Vì điều kiện công việc anh chị đề nghị Tòa án giải quyết vắng mặt anh chị theo quy định.

Người có quyền L nghĩa vụ liên quan bà Bùi Thị Lý trình bày: Bà là vợ của ông Lương Đình Chiến và là con dâu của cụ Lê Thị C và cụ Lương Văn M, cụ M chết năm 1988, cụ C chết năm 2011, trước khi chết các cụ không để lại giấy tờ hay di chúc gì. Cụ C sống với gia đình ông H và được chia ruộng cùng gia đình ông H. Bà lấy ông Chiến sau đó ra ở riêng và được chia ruộng riêng không liên quan đến gia đình ông H. Bà và ông Chiến có 02 người con là Lương Xuân T5, sinh N 1978 và Lương Đình C, sinh N 1985. N 2018 ông Chiến chết không để lại di chúc bà vẫn ở với các con. Đối với suất đất nông nghiệp của cụ C được chia cùng gia đình ông H bà và các con bà không có ý kiến gì đề nghị Tòa án giao cho ông H quản lý. Các con bà đi làm ăn thường xuyên vắng nhà, bà đã thông báo nội dung làm việc cùng tòa án cho các con bà biết và đều không có ý kiến gì. Vì điều kiện công việc bà và các con bà đề nghị Tòa án giải quyết vắng mặt theo quy định.

Người đại diện hợp pháp cho cháu Nguyễn Quang H, chị Lê Thị T4 trình bày: Chị là con dâu của bà Lê Thị S, chị kết hôn với con trai của bà S là anh Nguyễn Văn T vào N 2006, có đăng ký kết hôn tại UBND xã T đến N 2016 thì ly hôn. Vợ chồng có 01 con là Nguyễn Quang H, sinh N 2007 hiện đang ở với chị. Trước khi kết hôn với anh T, chị ở với bố mẹ đẻ ở cùng thôn với gia đình bà S và được Nhà nước chia đất nông nghiệp theo nghị định 64 theo tiêu chuẩn của bố mẹ đẻ chị là Lê Văn Tài và Vũ Thị Toan, ruộng của chị hiện tại bố mẹ đẻ đang quản lý sử dụng chưa sát nhập vào gia đình bà S. Khoảng N 2001 để T2ận tiện cho việc canh tác cấy lúa trồng màu gia đình bà S có đổi cho gia đình ông Lê Văn V thửa đất số 18, số thửa 334 số 18, số thửa 334 diện tích 204m2 đất nông nghiệp ở xứ đồng Ổ Quy lấy thửa đất số 251, tờ bản đồ số 18 diện tích 144 m2 đất của ông V T2ộc xứ đồng Gò Cao. Việc đổi đất giữa bà S và ông V diễn ra như thế nào chị không biết và không liên quan vì đây là tiêu chuẩn đất nông nghiệp của gia đình bà S. Nay bà S khởi kiện yêu cầu ông V trả lại toàn bộ diện tích 204m2 đất nông nghiệp ở xứ đồng Ổ Quy T2ộc thửa đất số 18, số thửa 334 còn bà sẽ trả lại cho ông V thửa đất số 251, tờ bản đồ số 18 diện tích 144 m2 T2ộc xứ đồng Gò Cao, chị đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật. Chị với anh Nguyễn Văn T có 01 con C là Nguyễn Quang H sinh ngày 22/9/2007 hiện đang ở với chị, đối với diện tích đất nông nghiệp tranh chấp giữa bà S và ông V không liên quan đến cháu H. Khi chị còn ở với anh T, bố mẹ anh T là bà S, và ông T6 đã chia cho anh T 11 thước đất nông nghiệp ở xử đồng Rộc Bèo, thôn P A, xã T không liên quan đến thửa đất đã đổi cho ông V, vì điều kiện công việc chị đề nghị Tòa án giải quyết vắng mặt chị theo quy định.

Người có quyền L nghĩa vụ liên quan bà Lê Thị Kim T1 trình bày: Trước kia bà là vợ của ông Trần Văn V, Theo nghị định 64 của Ch phủ về chia đất nông nghiệp gia đình bà có 04 khẩu là bà, ông V, 02 người con là chị Trần Thị T2, sinh Năm 1993 và anh Trần Văn H, sinh N 1999 nH5 chỉ được chia 03 suất nông nghiệp được chia đất là bà, ông V và chị T2 với tổng diện tích là 03 sào 14 thước đất Nông nghiệp. Quá trình đổi đất nông nghiệp với các hộ như lời trình bày của ông V là đúng, sau khi đổi đất xong gia đình bà đã cải tạo toàn bộ diện tích đã đổi quy tụ về một chỗ để đào ao, thả các, làm T4 trại chăn nuôi. Nay các đồng nguyên đơn khởi kiện đòi lại bà không đồng ý. Bà với ông V ly hôn vào N 2018 đối với phần đất Nông nghiệp của bà hiện đang do ông V quản lý bà và ông V sẽ tự giải quyết, nếu không thỏa T2ận được bà sẽ yêu cầu giải quyết bằng vụ án khác, không yêu cầu giải quyết trong vụ án này. Vì điều kiện công việc bận rộn, bà đề nghị Tòa án xem xét giải quyết vắng mặt bà theo quy định.

Người có quyền L nghĩa vụ liên quan chị Nguyễn Thị T2 trình bày: Chị là con của ông V và bà T1, chị hoàn toàn đồng ý với lời trình bày của ông V, bà T1, việc đổi đất giữa bố mẹ chị với các đồng nguyên đơn như thế nào do bố mẹ chị quyết định. Nay chị lấy chồng cắt khẩu về thành phố Hà Nội chị đề nghị tòa án giải quyết vụ án theo quy định của pháp luật. Phần diện tích của chị chị giao cho ông V toàn quyền quản lý sử dụng chị không có ý kiến gì. Chị đề nghị Tòa án xem xét giải quyết vắng mặt chị theo quy định.

Người làm chứng ông Nguyễn Văn Thái trình bày: Vào N 2011 ông là cán bộ địa Ch xã T, huyện V, tỉnh V. Vào N 2011 để T2ận L cho việc canh tác ông V và các hộ ông T, ông H, bà C, bà T, bà S có đổi đất cho nhau, ông là người lập danh sách đổi ruộng ngày 06/11/2011 và là người trực tiếp ký vào danh sách đổi ruộng. Ông khẳng định việc đổi ruộng của các hộ trong danh sách là có thật, còn các vấn đề khác ông không biết.

Tòa án tiến hành lấy lời khai của ông Nguyễn Kim Bộ là người thay mặt UBND xã T xác nhận vào các hợp đồng chuyển đổi quyền sử dụng đất nông nghiệp ngày 06/11/2011 giữa hộ ông V với hộ ông T, ông H, bà S, bà T, bà C. Tuy nH tại thời điểm lấy lời khai ông Bộ bị bệnh nặng không giao tiếp được, tinh thần không M mẫn vì vậy không thể hiện được quan điểm liên quan đến việc xác nhận vào hợp đồng chuyển đổi quyền sử dụng đất nông nghiệp giữa các hộ.

Về việc giám định chữ ký trong các hợp đồng đổi đất ngày 26/01/2011: Qúa trình giải quyết vụ án, bị đơn ông Trần Văn V có xuất trình cho Tòa án các hợp đồng đổi đất ngày 26/01/2011 (phô tô) thể hiện nguyên đơn đã đổi đất cho bị đơn và việc đổi đất được Ủy ban nhân dân xã xác nhận. Tuy nH, các nguyên đơn cho rằng chữ ký và chữ viết trong hợp đồng không phải là chữ ký và chữ viết của mình và đề nghị Tòa án tiến hành trưng cầu giám định chữ ký và chữ viết trong các hợp đồng theo quy định của pháp luật. Tòa án đã áp dụng mọi biện pháp T2 thập chứng cứ nH5 không T2 thập được bản gốc các hợp đồng đổi đất ngày 26/01/2011.

Về kết quả đo đạc thực tế sử dụng đất:

- Đối với thửa đất số 666, tờ bản đồ 20 diện tích 60,6 m2 ở xứ đồng đám mạ (do ông T đổi của ông V và hiện ông T vẫn đang sử dụng). Thực tế đo đạc có diện tích 60 m2, giảm 0,6m2 là do có sự sai số trong đo đạc.

- Đối với thửa đất số 324, tờ bản đồ số 21 có diện tích 399,1 m2 ở xứ đồng Mả De (do ông T đổi của ông V) hiện nay ông T vẫn đang sử dụng. Thực tế đo đạc có diện tích 396 m2, giảm 3,1 m2 là do sai số trong quá trình đo đạc, sử dụng.

- Đối với thửa đất ông V đổi cho bà T, bà C, bà S, ông H (hiện vả 4 hộ đang sử dụng) ở xứ đồng Gò Cao. Hiện trạng không còn mốc giới, không có bờ ngăn cách giữa các ruộng với nhau, các đương sự cũng không chỉ được mốc giới cụ thể. Theo Bản đồ 299 và đo đạc thực tế thể hiện thửa đất trên có số thửa là 251, tờ bản đồ 18 có diện tích là 500 m2.

- Đối với thửa đất nông nghiệp ở tờ bản đồ số 12, xử đồng Ổ Quy hiện ông V đang sử dụng gồm rất nhiều thửa đất, trong đó có thửa đất đổi của bà T diện tích 7,5 thước, 01 thửa đất đổi của ông H diện tích 8,5 thước, 01 thửa đất đổi của bà C diện tích 360 m2 và 01 thửa đất đổi của bà S diện tích 240 m2. Hiện 04 thửa đất trên ông V đã đào ao, thả cá. Tại thực địa các đương sự không chỉ được mốc giới nên không xác định được cụ thể từng thửa đất. Kt quả đo đạc thực tế có diện tích là 2620,7 m2.

Tại bản án sơ thẩm số 28/2023/DS-ST ngày 11 tháng 8 N 2023 của Toà án nhân dân huyện V, tỉnh V đã xét xử, quyết định:

- Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của các đồng nguyên đơn là ông Lê Văn T, bà Lê Thị S, chị Lê Thị Thanh T, ông Lương Văn H, bà Lê Thị C đối với Trần Văn V, cụ thể:

- Không chấp nhận yêu cầu của ông Lê Văn T về việc yêu cầu ông Trần Văn V trả lại thửa đất số 333.3 từ bản đồ số 18 diện tích 324m2 và thửa đất số 251, tờ bản đồ số 18 diện tích 168m2 đều ở xứ đồng Gò Cao, thôn P A, xã T, huyện V, tỉnh V.

- Không chấp nhận yêu cầu của bà Lê Thị Thanh T về việc yêu cầu ông Trần Văn V trả lại thửa đất số 250.3 từ bản đồ số 18 diện tích 180m2 ở xứ đồng Ổ Quy, thôn P A, xã T, huyện V, tỉnh V.

- Không chấp nhận yêu cầu của ông Lương Văn H về việc yêu cầu ông Trần Văn V trả lại thửa đất số 249.1 từ bản đồ số 18 diện tích 204m2 ở xứ đồng Ổ Quy, thôn P A, xã T, huyện V, tỉnh V.

- Không chấp nhận yêu cầu của bà Lê Thị S về việc yêu cầu ông Trần Văn V trả lại thửa đất số 335.10 tờ bản đồ số 18 diện tích 204m2 ở xứ đồng Ổ Quy, thôn P A, xã T, huyện V, tỉnh V.

- Không chấp nhận yêu cầu của bà Lê Thị C về việc yêu cầu ông Trần Văn V trả lại thửa đất số 338 tờ bản đồ số 18 diện tích 360m2 ở xứ đồng Ổ Quy, thôn P A, xã T, huyện V, tỉnh V .

Ngoài ra bản án còn tuyên về án phí, chi phí tố tụng và quyền kháng cáo của các đương sự.

Ngày 23/8/2023 các nguyên đơn là ông Lê Văn T, bà Lê Thị S, bà Lê Thị Thanh T, ông Lương Văn H, bà Lê Thị C có đơn kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩmvới nội dung: Đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm giải quyết chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

Tại pH tòa phúc thẩm:

- Nguyên đơn không rút đơn khởi kiện, không rút kháng cáo. Các đương sự không thỏa T2ận được với nhau về việc giải quyết vụ án.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh V phát biểu quan điểm:

- Về tố tụng: Người tham gia tố tụng và người tiến hành tố tụng đã thực hiện đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự tại Tòa án cấp phúc thẩm.

- Về nội dung: Đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm căn cứ khoản 1 Điều 308 Bộ luật tố tụng dân sự, xử không chấp nhận kháng cáo của các đồng nguyên đơn là ông Lê Văn T, bà Lê Thị S, bà Lê Thị Thanh T, ông Lương Văn H và bà Lê Thị C, giữ nguyên bản án sơ thẩm số 28/2023/DS- ST ngày 11 tháng 8 N 2023 của Toà án nhân dân huyện V, tỉnh V.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về tố tụng: Các nguyên đơn là ông Lê Văn T, bà Lê Thị S, bà Lê Thị Thanh T, ông Lương Văn H và bà Lê Thị C kháng cáo ngày 23/8/2023, ngày 25/8/2023 Tòa án nhân dân tỉnh V nhận được đơn kháng cáo qua đường Bưu điện, như vậy đơn kháng cáo của người kháng cáo trong thời hạn luật định nên được Hội đồng xét xử phúc thẩm xem xét theo trình tự phúc thẩm.

[2] Về nội dung kháng cáo đề nghị Tòa án xem xét bị đơn giả mạo chữ ký của các nguyên đơn trong hợp đồng chuyển đổi quyền sử dụng đất và đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, Hội đồng xét xử xét thấy:

N 2001, gia đình ông Trần Văn V thực hiện chủ trương dồn điền, đổi thửa tập trung đất nông nghiệp về một chỗ để chuyển đổi mô hình làm T4 trại phát triển kinh tế nông nghiệp VAC. Để có đủ diện tích đất để làm T4 trại ở xứ đồng Ổ Quy T2ộc xã T, huyện V, tỉnh V, gia đình ông đã tiến hành đổi đất cho rất nhiều gia đình trong đó có gia đình ông T, ông H, bà S, bà C, bà T cụ thể như sau:

- Đổi đất với gia đình ông Lê Văn T: Đổi thửa đất có diện tích 1 sào 3 thước xứ đồng Mả De T2ộc thửa số 48.1 tờ bản đồ số 18 và 2,5 thước đất đám mạ tổng cộng = 492m2 lấy 01 sào 5,5 thước đất nông nghiệp ở xứ đồng Gò Cao T2ộc 02 thửa đất số 333.3 có diện tích là 324m2; thửa số 251 có diện tích là 168m2 của gia đình ông T.

- Đổi đất với gia đình bà Lê Thị Thanh T: Đổi 5 thước xứ đồng Gò Cao thửa số 250.3 tờ bản đồ 18 = 120m2 đất nông nghiệp lấy 7,5 thước = 204m2 đất nông nghiệp ở xứ đồng Ổ Quy, T2ộc thửa đất số 250.3 tờ bản đồ 18, của gia đình bà Lê Thị Thanh T.

- Đổi đất với gia đình ông Lương Văn H: Đổi 7 thước đất ở xứ đồng Gò Cao thửa số 333.3 tờ bản đồ 18 =168m2 đất nông nghiệp, lấy 8,5 thước = 204m2 đất nông nghiệp ở xứ đồng Ổ Quy của gia đình ông Lương Văn H.

- Đổi đất với gia đình bà Lê Thị S: Đổi thửa đất số 251, tờ bản đồ số 18 diện tích 144m2 đất ở xứ đồng Gò Cao lấy thửa đất số 334 tờ bản đồ số 18 diện tích 204m2 ở xứ đồng Ổ Quy của gia đình bà Lê Thị S.

- Đổi đất với gia đình bà Lê Thị C: Đổi thửa đất số 251, tờ bản đồ số 18, diện tích 240m2 đất của ông V T2ộc xứ đồng Gò Cao lấy thửa 338, tờ bản đồ số 18 diện tích 360m2 ở xứ đồng Ổ Quy ở xã T của gia đình bà Lê Thị C.

Quá trình giải quyết vụ án và tại pH tòa các đương sự đều thừa nhận có việc đổi đất cho nhau để T2ận tiện cho việc canh tác. Sau khi đổi xong các bên đã tiến hành canh tác trên thửa ruộng đã đổi, ông V đã đổi thửa đất của ông T cho một số hộ dân khác, trong đó có hộ ông H, đồng thời tiến hành cải tạo các thửa đất nông nghiệp đã đổi của ông H, bà S, bà C, chị T thành ao thả cá không còn bờ vở phân định giữa các thửa ruộng, việc này các đương sự đều biết và không ai có ý kiến gì.

Như vậy việc đổi đất nông nghiệp cho nhau của các hộ là thực hiện chủ trương cải tạo vùng đầm trũng cấy lúa một vụ không ăn chắc (01 vụ lúa, 01 vụ cá) của UBND huyện V. Đến nay việc đổi ruộng trên thực tế đã hoàn thành từ lâu, các bên đã sử dụng đất ổn định, lâu dài, đúng mục đích.

Tại thời điểm đổi đất, các bên chỉ nói bằng miệng, đến N 2011 ông V xây lán trại để trông cá, khi đó Uỷ ban nhân dân bắt phải có văn bản đổi đất của các hộ trên, nên ông mới lập hợp đồng chuyển đổi quyền sử dụng đất và xin chứng thực của UBND xã T. Do thiếu hiểu biết nên ông V chỉ giữ lại bản Photocopy các hợp đồng và “Danh sách các hộ có ruộng chuyển đổi cho ông Trần Văn V”, còn bản Ch để UBND xã T. Ch ông ông Nguyễn Văn Thái là cán bộ địa Ch xã T, huyện V, tỉnh V thời điểm N 2011 xác nhận: Vào N 2011 để T2ận L cho việc canh tác ông V và các hộ ông T, ông H, bà C, bà T, bà S có đổi đất cho nhau, ông là người lập danh sách đổi ruộng ngày 06/11/2011 và là người trực tiếp ký vào “Danh sách các hộ có ruộng chuyển đổi cho ông Trần Văn V”. Ông khẳng định việc đổi ruộng của các hộ trong danh sách là có thật, còn các vấn đề khác ông không biết. Như vậy, mặc dù ông V không xuất trình được bản Ch các hợp đồng và danh sách đổi ruộng nH5 thông qua lời trình bày của cán bộ địa Ch xã thì có thể khẳng định đổi ruộng có lập văn bản, có địa Ch và lãnh đạo xã xác nhận nH5 không còn giữ được bản gốc. Tòa án cấp sơ thẩm cũng đã trưng cầu giám định các văn bản là hợp đồng chuyển đổi quyền sử dụng đất nH5 ngày 07/3/2023 Viện kH1 học hình sự có công văn từ chối giám định nếu được trưng cầu. Do vậy, không có căn cứ để đánh giá tính hợp pháp của các hợp đồng đổi đất ngày 26/01/2011. Không có cơ sở để khẳng định ông V giả mạo chữ ký của các nguyên đơn như đơn kháng cáo.

Các nguyên đơn cho rằng thời hạn đổi đất chỉ đổi đến N 2013 nH5 không có căn cứ chứng M và thực tế đến N 2013 không thấy hộ nguyên đơn nào có ý kiến đòi đất. Chỉ đến N 2018 khi tập đoàn S có ý định T2 mua toàn bộ diện tích đất nông nghiệp này để thực hiện việc chuyển đổi mục đích sử dụng sang đất phi nông nghiệp (dự án làm khu đô thị) các bên mới xảy ra tranh chấp. Hơn nữa, ngày 21/6/2013 Quốc hội đã có Nghị quyết số 49/2013/QH13 về việc kéo dài thời hạn sử dụng đất trồng cây hàng N, đất nuôi trồng T sản, đất làm muối của hộ gia đình cá nhân.

Tuy rằng ông V không xuất trình được bản gốc hợp đồng đổi đất, danh sách đổi đất nH5 về chủ thể và nội dung của giao dịch đổi đất hoàn toàn phù hợp với quy định của pháp luật tại thời điểm xác lập giao dịch, không vi phạm điều cấm của pháp luật, không trái đạo đức xã hội, phù hợp với điều kiện canh tác, phù hợp với chủ trương C của Nhà nước và địa phương về việc dồn điền, đổi thửa. Tại pH tòa phúc thẩm người làm chứng là ông Nguyễn Văn Thái khẳng định: Ông là cán bộ địa Ch xã T thời kỳ các đương sự đổi đất cho nhau. N 1994 xã có chủ trương chuyển đổi cơ cấu cây trồng VAC đối với nơi có nhiều ruộng trũng thấp, vận đồng nhân dân đổi ruộng cho nhau để làm VAC. Ông khẳng định khi các hộ trong xã đổi đất đã lập danh sách và đề nghị ông ký vào danh sách đổi đất và đại diện UBND xã có ký danh sách. Việc đổi đất giữa các hộ là có thật, phù hợp chủ trương cải tạo vùng đất trũng để phát triển kinh tế của huyện, của xã đề ra. Ông V Ch là người tiên phong thực hiện chủ trương này. Sau khi đổi ruộng cho các hộ ông T, bà T, ông H, bà S, bà C và một số hộ dân khác nữa trong xã thì ông V đã đào ao để nuôi cá và chăn nuôi vịt. Đến nay mô hình phát triển kinh tế của ông V phát triển tốt. Nay các hộ đòi lại đất đã đổi cho ông V là không Ch đáng vì đất đã đổi, đã được Ch quyền chấp nhận cho ông V đào ao, xây chuồng trại trên khu vực đó, nay không còn bờ vở của riêng từng thửa như trước khi đã đổi nữa.

Tòa án cấp sơ thẩm không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của các nguyên đơn là phù hợp pháp luật. Tại pH tòa phúc thẩm các nguyên đơn cũng không đưa ra thêm tài liệu, chứng cứ nào mới liên quan đến vụ án so với cấp sơ thẩm để bảo vệ quyền và L ích hợp pháp của mình, do đó không có cơ sở để Hội đồng xét xử phúc thẩm chấp nhận nội dung kháng cáo của các nguyên đơn. Như vậy hộ ông V tiếp tục được sử dụng các thửa đất: Thửa đất số 333.3 từ bản đồ số 18 diện tích 324m2 và thửa đất số 251, tờ bản đồ số 18 diện tích 168 m2 đều ở xứ đồng Gò Cao, thôn P A, xã T, huyện V, tỉnh V; thửa đất số 250.3 từ bản đồ số 18 diện tích 180 m2 ở xứ đồng Ổ Quy, thôn P A, xã T, huyện V, tỉnh V; thửa đất số 249.1 từ bản đồ số 18 diện tích 204 m2 ở xứ đồng Ổ Quy, thôn P A, xã T, huyện V, tỉnh V; thửa đất số 335.10 tờ bản đồ số 18 diện tích 204 m2 ở xứ đồng Ổ Quy, thôn P A, xã T, huyện V, tỉnh V; thửa đất số 338 tờ bản đồ số 18 diện tích 360 m2 ở xứ đồng Ổ Quy, thôn P A, xã T, huyện V, tỉnh V.

Còn các hộ gia đình ông Lê Văn T, bà Lê Thị S, bà Lê Thị Thanh T, ông Lương Văn H, bà Lê Thị C được tiếp tục sử dụng thửa đất mà hộ ông V đã đổi cho.

[3] Quyết định của bản án sơ thẩm ghi địa chỉ các thửa đất ở thôn “Phú Thú” là chưa Ch xác nên Hội đồng xét xử điều chỉnh thành “P” cho Ch xác. [4] Quan điểm của Viện kiểm sát là có căn cứ nên được chấp nhận.

[5] Về án phí dân sự phúc thẩm: Do kháng cáo không được chấp nhận nên bà Lê Thị Thanh T và ông Lương Văn H phải nộp án phí dân sự phúc thẩm. Ông Lê Văn T, bà Lê Thị S, bà Lê Thị C là người cao tuổi nên được miễn tiền án phí dân sự phúc thẩm.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ vào khoản 1 Điều 308 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, không chấp nhận kháng cáo của ông Lê Văn T, bà Lê Thị S, bà Lê Thị Thanh T, ông Lương Văn H và bà Lê Thị C, giữ nguyên Bản án sơ thẩm số 28/2023/DS- ST ngày 11 tháng 8 N 2023 của Toà án nhân dân huyện V, tỉnh V.

2. Căn cứ các Điều 147, Điều 157, Điều 227, Điều 228, Điều 171, Điều 173 Bộ luật tố tụng dân sự; Điều 699, 701, 703, 704 Bộ luật dân sự năm 1995; các Điều 693, 694, 695 và Điều 696 của Bộ luật Dân sự năm 2005; Điều 129, 688 của Bộ luật Dân sự năm 2015; Điều 31, 73, 74 Luật đất đai nămăm 1993; Điều 203 Luật đất đai năm 2013; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc hội ngày 30/12/2016 quy định về mức T2, miễn, giảm, T2 nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, xử:

- Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của các nguyên đơn là ông Lê Văn T, bà Lê Thị S, bà Lê Thị Thanh T, ông Lương Văn H, bà Lê Thị C đối với ông Trần Văn V, cụ thể:

- Không chấp nhận yêu cầu của ông Lê Văn T về việc yêu cầu ông Trần Văn V trả lại thửa đất số 333.3 từ bản đồ số 18 diện tích 324m2 và thửa đất số 251, tờ bản đồ số 18 diện tích 168 m2 đều ở xứ đồng Gò Cao, thôn P A, xã T, huyện V, tỉnh V.

- Không chấp nhận yêu cầu của bà Lê Thị Thanh T về việc yêu cầu ông Trần Văn V trả lại thửa đất số 250.3 từ bản đồ số 18 diện tích 180 m2 ở xứ đồng Ổ Quy, thôn P A, xã T, huyện V, tỉnh V.

- Không chấp nhận yêu cầu của ông Lương Văn H về việc yêu cầu ông Trần Văn V trả lại thửa đất số 249.1 từ bản đồ số 18 diện tích 204 m2 ở xứ đồng Ổ Quy, thôn P A, xã T, huyện V, tỉnh V.

- Không chấp nhận yêu cầu của bà Lê Thị S về việc yêu cầu ông Trần Văn V trả lại thửa đất số 335.10 tờ bản đồ số 18 diện tích 204 m2 ở xứ đồng Ổ Quy, thôn P A, xã T, huyện V, tỉnh V.

- Không chấp nhận yêu cầu của bà Lê Thị C về việc yêu cầu ông Trần Văn V trả lại thửa đất số 338 tờ bản đồ số 18 diện tích 360 m2 ở xứ đồng Ổ Quy, thôn P A, xã T, huyện V, tỉnh V .

3. Về chi phí tố tụng: Ông Lê Văn T, bà Lê Thị S, bà Lê Thị Thanh T, ông Lương Văn H và bà Lê Thị C mỗi người phải chịu 1.600.000 đồng. Xác nhận ông T đại diện cho các nguyên đơn đã nộp đủ tiền chi phí tố tụng.

4. Về án phí dân sự sơ thẩm:

- Ông Lê Văn T, bà Lê Thị S, bà Lê Thị C được miễn toàn bộ tiền án phí dân sự sơ thẩm.

- Bà Lê Thị Thanh T và ông Lương Văn H mỗi người phải nộp 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm, nH5 bà Lê Thị Thanh T được trừ vào 300.000 đồng tiền tạm ứng án phí đã nộp tại biên lai số 0004791; ông Lương Văn H được trừ vào 300.000 đồng tiền tạm ứng án phí đã nộp tại biên lai số 0004790, cả hai biên lai đều cùng ngày 06/12/2019 của Chi cục thi hành án dân sự huyện V. Xác nhận bà T và ông H đã nộp đủ án phí dân sự sơ thẩm.

5. Về án phí dân sự phúc thẩm:

- Ông Lê Văn T, bà Lê Thị S và bà Lê Thị C được miễn án phí dân sự phúc thẩm.

- Bà Lê Thị Thanh T và ông Lương Văn H mỗi người phải nộp 300.000 đồng án phí dân sự phúc thẩm, nH5 bà T, ông H được trừ vào số tiền tạm ứng án phí dân sự phúc thẩm đã nộp 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) theo biên lai T2 số 0000487 ngày 21/9/2023 và biên lai T2 số 0000488 ngày 21/9/2023 của Chi cục thi hành án dân sự huyện V, tỉnh V. Xác nhận bà Lê Thị Thanh T và ông Lương Văn H đã nộp đủ án phí dân sự phúc thẩm.

Bản án phúc thẩm có H3 lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

4
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp hợp đồng chuyển đổi đất nông nghiệp số 01/2024/DS-PT

Số hiệu:01/2024/DS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Vĩnh Phúc
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 05/01/2024
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về