Bản án về tranh chấp hợp đồng cầm cố, hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất số 109/2023/DS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH PHÚ YÊN

BẢN ÁN 109/2023/DS-PT NGÀY 12/12/2023 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG CẦM C, HỢP ĐỒNG CHUYỂN NHƯỢNG QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT

Ngày 12 tháng 12 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh P, mở phiên tòa xét xử phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số: 75/2023/DS-PT ngày 17 tháng 10 năm 2023 về việc Tranh chấp hợp đồng cầm cố quyền sử dụng đất, hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất.

Do bản án dân sự sơ thẩm số: 24/2023/DS-ST ngày 25/8/2023 của Tòa án nhân dân thị xã Sông Cầu bị kháng cáo, kháng nghị.

Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 147/2023/QĐ-PT ngày 03/11/2023; Quyết định hoãn phiên tòa số 240/2023/QĐ-HPT ngày 17/11/2023, Thông báo thời gian xét xử số 254/2023/TB ngày 30/11/2023 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn:

1. Bà Nguyễn Thị Đ, sinh năm 1945; địa chỉ: Thôn T, xã X, thị xã S, tỉnh P. Vắng mặt.

2. Ông Ngô Văn L, sinh năm 1964; địa chỉ: Thôn T, xã X, thị xã S, tỉnh P. Vắng mặt.

3. Bà Ngô Thị Đl, sinh năm 1962; địa chỉ: Thôn B, xã X, thị xã S, tỉnh P. Có mặt.

4. Bà Ngô Thị T, sinh năm 1967; địa chỉ: Tổ A, khu V, phường N, thành phố Q, thành phố Q, tỉnh Bình Định. Có mặt.

5. Bà Ngô Thị D, sinh năm 1970; địa chỉ: Thôn E, xã X, thị xã S, tỉnh P. Có mặt.

6. Bà Ngô Thị T1, sinh năm 1973; địa chỉ: Thôn H, xã X, thị xã S, tỉnh P. Vắng mặt.

7. Bà Ngô Thị X, sinh năm 1975; địa chỉ: Thôn M, xã X, thị xã S, tỉnh P. Vắng mặt.

8. Ông Ngô Minh Q, sinh năm 1978; địa chỉ: T, C, C, K. Vắng mặt.

9. Ông Ngô Minh Đ2, sinh năm 1983; địa chỉ: Thôn T, xã X, thị xã S, tỉnh P. Vắng mặt.

10. Bà Ngô Thị D1, sinh năm 1980; địa chỉ: Thôn X, xã H, thành phố T, tỉnh P. vắng mặt.

Người đại diện theo ủy quyền của các đồng nguyên đơn: Ông Ngô Văn L, sinh năm 1964; địa chỉ: Thôn T, xã X, thị xã S, tỉnh P. Vắng mặt.

Người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của nguyên đơn: Ông Ngô Minh T2 - Luật sư Văn phòng L2; địa chỉ: B N, phường E, thành phố T, tỉnh P.

- Bị đơn: Ông Nguyễn Hữu N, sinh năm 1962; địa chỉ: Thôn T, xã X, thị xã S, tỉnh P. Có mặt.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1. Bà Huỳnh Thị B, sinh năm 1962; địa chỉ: Thôn T, xã X, thị xã S, tỉnh P. Có mặt.

2. Vợ chồng ông Trần Kỳ T3 - sinh năm 1968, bà Nguyễn Thị H - sinh năm 1971; địa chỉ: Thôn B, xã X, thị xã S, tỉnh P. Bà H ủy quyền cho ông T3. Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện và quá trình tố tụng tại Tòa án, các đồng nguyên đơn bà Nguyễn Thị Đ, Ngô Văn L, Ngô Thị Đ1, Ngô Thị T, Ngô Thị D, Ngô Thị T1, Ngô Thị X, Ngô Minh Q, Ngô Minh Đ2, Ngô Thị D1 thống nhất trình bày: Thửa đất số 40, tờ bản đồ 01, có diện tích khoảng 9.216m2 tọa lạc tại thôn D, xã X (gọi tắt là thửa đất số 40) có nguồn gốc do Nhà nước cấp cho hộ gia đình ông Ngô S, bà Nguyễn Thị Đ theo chương trình di dân đi kinh tế mới. Thời điểm di dân khoảng năm 1998, Nhà nước cấp sổ lâm bạ cho hộ gia đình ông S, bà Đ gồm vợ chồng ông bà và 09 người con, cụ thể: Vợ Nguyên Thị Đ, chồng Ngô S, các con Ngô Thị Đ1, Ngô Văn L, Ngô Thị T, Ngô Thị D, Ngô Thị T1, Ngô Thị X Ngô Minh Q, Ngô Thị D1, Ngô Minh Đ2.

Cả gia đình ông bà cùng sinh sống và canh tác tại thửa đất tranh chấp, có xây dựng một căn nhà mái lợp tranh, vách đất, đào 01 giếng nước để sinh hoạt. Sau đó vài năm nhà sập nên vợ chồng bà và 09 người con trở về thôn T, xã X sinh sống từ đó cho đến nay.

Sau khi gia đình bà Đ trở lại thôn T sinh sống, vợ chồng bà Đ có thực quyền sử dụng thửa đất số 40 nêu trên cho vợ chồng ông Nguyên Hữu N, bà Huỳnh Thị B (vợ chồng ông N, bà B). Thời gian thục đất thì bà Đ không nhớ. Nguyên nhân vợ chồng bà Đ thục đất do mua gạo để làm nghề bán bánh hỏi nợ vợ chồng ông N 7.000.000đ. Nội dung thục: Vợ chồng bà Đ giao sổ lâm bạ và toàn quyền quản lý, sử dụng thửa đất số 40 cho vợ chồng ông N, bà B; đến khi nào các con của vợ chồng bà trưởng thành, có tiền thì thỏa thuận lại sau. Việc thục đất hai bên chỉ thoả thuận bằng miệng, không lập hợp đồng thục đất. Thời điểm thục, vợ chồng bà không cho 09 người con biết. Đến năm 2003, khi nhà nước có chương trình đổi sổ lâm bạ sang Giấy CNQSDĐ thì 09 người con mới biết việc vợ chồng bà đã thục đất cho vợ chồng ông N, bà B. Vì lúc này vợ chồng ông N, bà B đang giữ sổ lâm bạ nên cần vợ chồng ông N, bà B đưa sổ lâm bạ để làm Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Khi 09 người con biết việc vợ chồng bà thục đất cho vợ chồng ông N, bà B, các con bà nói sự việc đã lỡ rồi nên cũng đồng ý với việc thục đất thửa số 40 cho vợ chồng ông N, bà B. Các con bà nói khi nào các con bà có tiền thì sẽ đưa tiền lại cho vợ chồng ông N, bà B, vì thời điểm này các con bà đều rất khổ, không có tiền đưa cho vợ chồng ông N, bà B liền. Sau khi được Nhà nước đổi Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (Giấy CNQSDĐ) mới, do các con bà đã biết sự việc thục đất nên các con bà đồng ý để vợ chồng bà giao lại Giấy CNQSDĐ mới cho vợ chồng ông N, bà B giữ. Bà Đ không thừa nhận chữ ký của ông Ngô S và bà Đ có tại Giấy sang nhượng đất trồng cây công nghiệp lâu năm đề ngày 27/5/1998 và Giấy ủy quyền đề ngày 27/5/1998.

Khoảng đầu năm 2019, các con bà Đ có tiền để trả nợ cho vợ chồng ông N, bà B, lấy lại thửa đất số 40 thì vợ chồng ông N, bà B không đồng ý nên dân đến phát sinh tranh chấp. Bà Đ và 09 người con khởi kiện, yêu cầu Tòa án giải quyết buộc vợ chồng ông N, bà B trả lại quyền sử dụng thửa đất số 40 và Giấy CNQSDĐ thửa đất số 40 tại thôn D. Bà Đ và các con sẽ trả lại số tiền 7.000.000đ (Bảy triệu đồng) và tiền lãi phát sinh cho vợ chồng ông N, bà B theo quy định pháp luật.

Quá trình tố tụng tại Tòa án, bị đơn ông Nguyễn Hữu N (ông N) trình bày: Thửa đất số 40 do vợ chồng ông nhận chuyển nhượng từ vợ chồng ông Ngô S, bà Nguyễn Thị Đ chứ không có việc vợ chồng ông S, bà Đ thục đất như lời các nguyên đơn trình bày. Hai bên có làm giấy viết tay ghi nhận việc chuyển nhượng đất. Về giá chuyển nhượng: Thỏa thuận 10.000.000 đồng (Mười triệu đồng). Tại thời điểm giao kết, hai bên thống nhất cấn trừ 2.500.000 đồng tiền vợ chồng ông S còn nợ, vợ chồng ông S làm giấy ủy quyền ngày 27/5/1998 âm lịch cho vợ chồng ông toàn quyền sử dụng thửa đất số 40, khi nào vợ chồng ông đưa thêm 7.500.000 đồng thì vợ chồng ông S mới làm giấy sang nhượng. Cùng ngày, vợ chồng ông gặp vợ chồng ông S đưa thêm tiền mặt 7.500.000 đồng, vợ chồng ông S đã lập giấy sang nhượng đất và trồng cây công nghiệp lâu năm đề ngày 27/5/1998 âm lịch ghi rõ nội dung vợ chồng ông S sang nhượng thửa đất số 40 cho vợ chồng ông chứ không ủy quyền sử dụng đất nữa.

Khi lập Giấy sang nhượng do vợ chồng ông lúc đó đưa tiền mặt là 7.500.000 đồng nên trong giấy lúc đầu ghi nhận giá chuyển nhượng là 7.500.000đ, quên việc cấn trừ 2.500.000 đồng tiền nợ trước đó để lập giấy ủy quyền sử dụng. Vì vậy, các bên mới thống nhất sửa lại giá chuyển nhượng từ 7.500.000 đồng thành 10.000.000 đồng. Sau khi đưa đủ tiền, các bên ký vào giấy sang nhượng, vợ chồng ông S, bà Đ giao bản chính sổ lâm bạ và bản đồ lâm nghiệp cho vợ chồng ông và giao quyền quản lý, sử dụng thửa đất số 40 cho vợ chồng ông.

Ngày 15/7/1998, ông N cùng ông S tới gặp cán bộ địa chính UBND xã X lúc bấy giờ là ông Lê Thành L1 để thực hiện việc sang tên sổ lâm bạ nhưng chưa đến kỳ đổi nên ông L1 tạm thời chỉ xác nhận việc mua bán vào giấy sang nhượng trước sự chứng kiến của ông N và ông S. Sau đó, ông N giao nộp bản chính sổ lâm bạ, bản đồ giao đất lâm nghiệp cho ông L1 để ông L1 làm thủ tục cấp đổi sổ. Tuy nhiên, đến khi đổi được sổ lâm bạ sang Giấy CNQSDĐ thì UBND xã X thông báo thửa đất số 40 thuộc khu quy hoạch, không cho chuyển nhượng, sang tên nên vợ chồng ông không thực hiện được thủ tục sang tên từ hộ ông Ngô S sang tên vợ chồng ông N. Đến khi vợ chồng ông N có thông tin thửa đất số 40 không còn thuộc diện quy hoạch, vợ chồng ông tiến hành thủ tục sang tên thì ông Ngô S chết.

Từ thời điểm vợ chồng ông nhận chuyển nhượng đất của vợ chồng ông S đến khi tranh chấp xảy ra, 09 người con của vợ chồng ông S, bà Đ đều biết. Vì nhà của vợ chồng ông và nhà của vợ chồng ông S, bà Đ gân nhau. Hơn nữa, khi vợ chồng ông mua thửa đất số 40, trên đất vẫn còn tồn tại căn nhà tranh vách đất của gia đình ông Ngô Sắp. Ông S có xin vợ chồng ông cho gia đình ông dỡ căn nhà, lấy vật liệu còn sử dụng được đem về gia đình ông sử dụng. Vợ chồng ông đồng ý nên các con ông S dỡ nhà, đem vật liệu cây cối về.

Tại thời điểm vợ chồng ông nhận chuyển nhượng đất, trên thửa đất số 40 ngoài căn nhà tranh, còn có một số cây dừa, cây điều, cây bạc hà. Sau khi nhận chuyển nhượng, vợ chồng ông quản lý, sử dụng thửa đất sô 40 ổn định đến khi các bên có tranh chấp. Vợ chồng ông trồng cây keo trên đất. Cây điều và cây dừa do gia đình ông S trồng đến nay không còn. Riêng hàng cây bạc hà gia đình ông S trồng làm ranh giới của thửa đất, hàng năm vợ chồng ông khai thác bán thu hoạch hoa lợi cho đến nay. Việc vợ chồng ông trồng cây, khai thác hoa lợi gia đình ông S và các con đều biết. Bên cạnh đó, vợ chồng ông còn đóng tiền làm đường bê tông thửa đất số 40 theo quy định của nhà nước.

Ngày 10/6/2003, vợ chồng ông cắt bán cho ông Trần Kỳ T3 diện tích khoảng 3.000m2 thuộc thửa đất số 40 với giá chuyển nhượng 20.000.000 đồng (Hai mươi triệu đồng). Vợ chồng ông đã nhận 17.000.000 đồng (Mười bảy triệu đồng), thỏa thuận khi nào vợ chồng ông hoàn tất thủ tục sang tên Giây CNQSDĐ cho ông T3 thì ông T3 mới đưa thêm 3.000.000 đồng (Ba triệu đồng). Sự việc vợ chồng tôi bán đất cho ông T3, vợ chồng ông S, bà Đ và 09 người con của ông S, bà Đ đều biết.

Vợ chồng ông khẳng định các giấy tờ gồm: Giấy ủy quyền lập ngày 27/5/1998 âm lịch, Giấy sang nhượng đất trồng cây công nghiệp lâu năm đề ngày 27/5/1998 âm lịch và giấy xác nhận và ủy quyền đề ngày 20/6/2015 đều do vợ chồng ông S, bà Đ và các con bà Đ tự nguyện ký tên và viết tên, không có sự giả mạo.

Vì vậy, đối với yêu cầu khởi kiện của bà Đ và 09 người con của bà Đ, ông không đồng ý. Ông yêu cầu Tòa án công nhận hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất theo Giấy sang nhượng đất trồng cây công nghiệp lâu năm đề ngày 27/5/1998 âm lịch, công nhận quyền sử dụng đất của vợ chồng ông đối với thửa đất số 40. Vợ chồng ông được quyền liên hệ cơ quan có thẩm quyền sang tên Giấy CNQSDĐ.

Quá trình tố tụng tại tòa, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Huỳnh Thị B (bà B) trình bày: Về nguồn gốc, quá trình nhận chuyển nhượng, quản lý, sử dụng thửa đất số 40, bà thống nhất nội dung trình bày, yêu cầu của ông N.

Quá trình tố tụng, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vợ chồng ông Trần Kỳ T3, bà Nguyễn Thị H trình bày: Vào ngày 10/06/2003, vợ chồng ông T3, bà H lập giấy viết tay “Giấy sang nhượng đất” nhận chuyển nhượng của vợ chồng ông N, bà B diện tích đất ngang 30m x dài 100m, trong đó có 100m2 đất thổ cư thuộc một phần thửa đất số 40, tờ bản đồ số 01 tọa lạc tại thôn D, xã X, thị xã S, tỉnh P với số tiền 20.000.000đ (Hai mươi triệu đồng). Lúc này, vợ chồng ông T3, bà H có nghe vợ chồng ông N, bà B thông tin cho vợ chồng ông T3, bà H biết nguồn gốc diện tích đất chuyển nhượng do vợ chồng ông N, bà B nhận chuyển nhượng từ vợ chồng ông Ngô S, bà Nguyễn Thị Đ. Nhưng trong thời gian này, thửa đất số 40 bị quy hoạch nên không làm thủ tục sang tên Giấy CNQSDĐ được. Vợ chồng ông T3, bà H đã đưa cho vợ chồng ông N, bà B số tiền 17.000.000đ (Mười bảy triệu đồng). Còn 3.000.000đ (Ba triệu đồng) vợ chồng ông T3, bà H sẽ giao đủ khi nào vợ chồng ông N, bà B hoàn tất thủ tục sang tên. Từ khi vợ chồng ông T3, bà H nhận chuyển đến nay, vợ chồng ông bà canh tác, trồng cây bạch đàn, đã thu hoạch cây 02 lần. Đối với yêu cầu khởi kiện đòi đất của phía các nguyên đơn thì vợ chồng ông không đồng ý trả đất. Vợ chồng ông T3, bà H yêu cầu Tòa án công nhận hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa vợ chồng ông T3, bà H với vợ chồng ông N, bà B; công nhận quyền sử dụng đất của vợ chồng ông T3, bà H đối với diện tích đất đo đạc thực tế mà vợ chồng ông bà đang sử dụng là 2.824.9m2.

Tại bản án dân sự sơ thẩm số: 75/2023/DS-ST ngày 17/10/2023 của Tòa án nhân dân thị xã Sông Cầu đã quyết định:

Căn cứ khoản 1 Điều 30, khoản 2 Điều 31, khoản 1 Điều 33 Luật đất đai năm 1993; khoản 1 Điều 3 Nghị định số 17/1999/NĐ-CP ngày 29/03/1999 của Chính phủ; khoản 4 Điều 76 Luật đất đai năm 2003; điểm a khoản 3 Điều 167, khoản 4 Điều 191 Luật đất đai năm 2013; Điều 117, Điều 122, Điều 123, Điều 131 Bộ luật Dân sự năm 2015; Điều 147, Điều 157, Điều 161, Điều 165 Bộ luật Tố tụng Dân sự; Điều 12, khoản 2 Điều 25, Điều 26, Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án.

1. Tuyên bố Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa vợ chồng ông Ngô S, bà Nguyễn Thị Đ và vợ chồng ông Nguyễn Hữu N, bà Huỳnh Thị B theo Giấy ủy quyền đề ngày 27/05/1998 âm lịch, Giấy sang nhượng đất trồng cây công nghiệp lâu năm đề ngày 27/05/1998 âm lịch và Giấy xác nhận và ủy quyền đề ngày 20/06/2015 vô hiệu.

Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của các đồng nguyên đơn bà Nguyễn Thị Đ, ông Ngô Văn L, bà Ngô Thị Đ1, bà Ngô Thị T, bà Ngô Thị D, bà Ngô Thị T1, bà Ngô Thị X, ông Ngô Minh Q, ông Ngô Minh Đ2, bà Ngô Thị D1 về việc buộc vợ chồng ông Nguyễn Hữu N bà Huỳnh Thị B trả đất, trả Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.

Không chấp nhận yêu cầu phản tố của bị đơn ông Nguyễn Hữu N về việc công nhận hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa vợ chồng ông Ngô S bà Nguyễn Thị Đ và vợ chồng ông Nguyễn Hữu N bà Huỳnh Thị B theo Giấy ủy quyền đề ngày 27/05/1998 âm lịch, Giấy sang nhượng đất trồng cây công nghiệp lâu năm đề ngày 27/05/1998 âm lịch và Giấy xác nhận và ủy quyền đề ngày 20/06/2015, công nhận quyền sử dụng đất của vợ chồng ông Nguyễn Hữu N bà Huỳnh Thị B đối với diện tích đất (đo đạc thực tế) 6380,1m2 thuộc một phần thửa đất số 40, nay là thửa 123 tờ bản đồ số 87 (Đo đạc năm 2012) tọa lạc tại thôn D, thị xã S theo Mảnh đo đạc chỉnh lý bản đồ địa chính số 39-2021 của Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai thị xã S, đã được UBND thị xã S cấp Giấy CNQSDĐ số W425563 cho vợ chồng ông Ngô S, bà Nguyễn Thị Đ ngày 03/04/2003.

Tuyên bố Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa vợ chồng ông Nguyễn Hữu N, bà Huỳnh Thị B và vợ chồng ông Trần Kỳ T3 bà Nguyễn Thị H theo Giấy sang nhượng đất ngày 10/06/2003 vô hiệu.

Không chấp nhận yêu cầu độc lập của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vợ chồng ông Trần Kỳ T3, bà Nguyễn Thị H về việc công nhận hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa vợ chồng ông N bà B và vợ chồng ông T3 bà H theo Giấy sang nhượng đất ngày 10/06/2003, công nhận quyền sử dụng đất của vợ chồng ông T3 bà H đối với diện tích đo đạc thực tế 2.824,9m2 thuộc một phần thửa đất số 40, nay là thửa 123 tờ bản đồ số 87 (Đo đạc năm 2012) tọa lạc tại thôn D, thị xã S theo Mảnh đo đạc chỉnh lý bản đồ địa chính số 39-2021 của Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai thị xã S, đã được UBND thị xã S cấp Giấy CNQSDĐ số W425563 cho vợ chồng ông Ngô S, bà Nguyễn Thị Đ ngày 03/04/2003.

Vợ chồng ông Nguyễn Hữu N, bà Huỳnh Thị B phải giao trả cho các đồng nguyên đơn bà Nguyễn Thị Đ, ông Ngô Văn L, bà Ngô Thị Đ1, bà Ngô Thị T, bà Ngô Thị D, bà Ngô Thị T1, bà Ngô Thị X, ông Ngô Minh Q, ông Ngô Minh Đ2, bà Ngô Thị D1 diện tích đất (đo đạc thực tế) 6380,1m2 thuộc một phần thửa đất số 40, nay là thửa 123 tờ bản đồ số 87 (Đo đạc năm 2012) tọa lạc tại thôn D, thị xã S theo Mảnh đo đạc chỉnh lý bản đồ địa chính số 39-2021 của Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai thị xã S và bản chính Giấy CNQSDĐ số W425563 do UBND thị xã S cấp cho vợ chồng ông Ngô S, bà Nguyễn Thị Đ ngày 03/04/2003 (Có sơ đồ bản vẽ kèm theo).

Vợ chồng ông Trần Kỷ T3, bà Nguyễn Thị H phải giao trả cho các đồng nguyên đơn bà Nguyễn Thị Đ, ông Ngô Văn L, bà Ngô Thị Đ1, bà Ngô Thị T, bà Ngô Thị D, bà Ngô Thị T1, bà Ngô Thị X, ông Ngô Minh Q, ông Ngô Minh Đ2, bà Ngô Thị D1 diện tích (đo đạc thực tế) 2824,9m2 thuộc một phần thửa đất số 40, nay là thửa 115 tờ bản đồ số 87 (Đo đạc năm 2012) theo Mảnh đo đạc chỉnh lý bản đồ địa chính số 39-2021 của Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai thị xã S, tỉnh P (Có sơ đồ bản vẽ kèm theo).

Các đồng nguyên đơn bà Nguyễn Thị Đ, ông Ngô Văn L, bà Ngô Thị Đ1, bà Ngô Thị T, bà Ngô Thị D, bà Ngô Thị T1, bà Ngô Thị X, ông Ngô Minh Q, ông Ngô Minh Đ2, bà Ngô Thị D1 phải thối lại cho vợ chồng ông Nguyên Hữu N, bà Huỳnh Thị B tổng số tiền 274.432.500đ (Hai trăm bảy mươi bốn triệu bốn trăm ba mươi hai nghìn năm trăm đồng), gồm các khoản: 7.000.000đ tiền chuyển nhượng đất, 11.418.000đ chi phí nộp làm đường bê tông nông thôn, 43.992.000đ giá trị các cây keo, 212.022.500đ tiền bồi thường thiệt hại do chênh lệch giá trị đất.

Các đồng nguyên đơn bà Nguyễn Thị Đ, ông Ngô Văn L, bà Ngô Thị Đ1, bà Ngô Thị T, bà Ngô Thị D, bà Ngô Thị T1, bà Ngô Thị X, ông Ngô Minh Q, ông Ngô Minh Đ2, bà Ngô Thị D1 phải thối lại cho vợ chồng ông Trần Kỳ T3, bà Nguyễn Thị H số tiền 19.116.000đ (Mười chín triệu một trăm mười sáu nghìn đồng) giá trị các cây bạch đàn.

Vợ chồng ông Nguyễn Hữu N, bà Huỳnh Thị B phải thối lại cho vợ chồng ông Trần Kỳ T3, bà Nguyễn Thị H tổng số tiền 108.262.050đ (Một trăm lẻ tám triệu hai trăm sáu mươi hai nghìn không trăm năm mươi đồng), gồm các khoản 17.000.000đ tiền chuyển nhượng đất, 91.262.050đ tiền bồi thường thiệt hại do chênh lệch giá trị đất.

Các đồng nguyên đơn bà Nguyễn Thị Đ, ông Ngô Văn L, bà Ngô Thị Đ1, bà Ngô Thị T, bà Ngô Thị D, bà Ngô Thị T1, bà Ngô Thị X, ông Ngô Minh Q, ông Ngô Minh Đ2, bà Ngô Thị D1 được quyền quản lý, sử dụng 01 giếng có kết cấu bê tông cốt thép; đường kính 1,2m; chiều sâu 10m và sở hữu số cây keo và bạch đàn do vợ chồng ông Nguyễn Hữu N, bà Huỳnh Thị B và vợ chồng ông Trần Kỳ T3, bà Nguyễn Thị H trồng trên thửa đất số 40, nay là thửa 123 và thửa 115 thuộc tờ bản đồ số 87 (Đo đạc năm 2012) theo Mảnh đo đạc chỉnh lý bản đô địa chính số 39-2021 của Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai thị xã S, tỉnh P.

Ghi nhận sự tự nguyện của vợ chồng ông Nguyễn Hữu N, bà Huỳnh Thị B giao cho các đồng nguyên đơn bà Nguyễn Thị Đ, ông Ngô Văn L, bà Ngô Thị Đ1, bà Ngô Thị T, bà Ngô Thị D, bà Ngô Thị T1, bà Ngô Thị X, ông Ngô Minh Q, ông Ngô Minh Đ2, bà Ngô Thị D1 quản lý, sử dụng công trình tường rào xây gạch dày 15cm; dài 69,61m; cao 0,45m và trụ bê tông có kích thước (0,1 x 0,11 x 1,8)m có trên thửa 123 tờ bản đồ số 87 (Đo đạc năm 2012), thuộc một phần thửa số 40 theo Mảnh đo đạc chỉnh lý bản đồ địa chính số 39-2021 của Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai thị xã S, tỉnh P.

Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn tuyên về nghĩa vụ chịu án phí, chi phí tố tụng và quyền kháng cáo của các đương sự.

Ngày 29/8/2023, bị đơn ông Nguyễn Hữu N có đơn kháng cáo bản án sơ thẩm, đề nghị chấp nhận toàn bộ yêu cầu phản tố của bị đơn.

Ngày 06/9/2023, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan ông Trần Kỳ T3, bà Nguyễn Thị H kháng cáo, đề nghị chấp nhận toàn bộ yêu cầu độc lập.

Ngày 21/9/2023, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh P có kháng nghị số 06/QĐ-VKS-DS ngày 19/9/2023, kháng nghị đề nghị sửa bản án sơ thẩm theo hướng không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, công nhận hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất rừng phòng hộ giữa vợ chồng ông Ngô S và vợ chồng ông Nguyễn Hữu N là có hiệu lực pháp luật.

Tại phiên tòa phúc thẩm:

- Nguyên đơn đề nghị giữ nguyên bản án sơ thẩm. Luật sư bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các đồng nguyên đơn cho rằng đất tranh chấp được Nhà nước cấp cho hộ ông Ngô S, bà Nguyễn Thị Đ và 09 người con, giấy chuyển nhượng không có chữ ký của các người con, không được công chứng, chứng thực là vi phạm hình thức của hợp đồng; vợ chồng ông N ở T, đất ở thôn D không đủ điều kiện để nhận chuyển nhượng. Kháng nghị của VKSND tỉnh P, kháng cáo của bị đơn và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan không có căn cứ. Đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm bác kháng nghị, kháng cáo của bị đơn, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan, giữ nguyên quyết định của bản án sơ thẩm.

- Bị đơn, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập giữ nguyên yêu cầu kháng cáo. Luật sư bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị đơn cho rằng kháng nghị của VKSND tỉnh P là có căn cứ đúng pháp luật. Nguyên đơn và bị đơn cùng ở thôn T, đất tranh chấp ở thôn D, xã X cùng một xã đủ điều kiện chuyển nhượng. Mặt khác hiện nay đất này đã quy hoạch là đất ở. Đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm chấp nhận kháng nghị của VKSND tỉnh P, kháng cáo của bị đơn và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan. Riêng việc thanh toán số tiền 3.000.000đ của hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa vợ chồng ông N và vợ chồng ông T3, hai bên đã thỏa thuận đề nghị Tòa ghi nhận.

- Kiểm sát viên phát biểu ý kiến của Viện kiểm sát về việc tuân theo pháp luật trong quá trình giải quyết vụ án ở giai đoạn phúc thẩm của Thẩm phán, HĐXX, Thư ký phiên tòa và những người tham gia tố tụng thực hiện đúng quy định pháp luật tố tụng. Về nội dung: Hợp đồng chuyển nhượng QSD đất rừng phòng hộ giữa vợ chồng ông S và vợ chồng ông N không được công chứng, chứng thực là không đúng quy định về hình thức nhưng các bên đã thực hiện toàn bộ nghĩa vụ nên cần công nhận hiệu lực hợp đồng theo quy định tại Điều 129 BLDS 2015.

Về điều kiện chuyển nhượng rừng phòng hộ, đề nghị áp dụng tương tự pháp luật quy định tại điểm c khoản 2 Điều 16, Điều 81 Luật Lâm nghiệp năm 2017, khoản 2 Điều 21 Luật bảo vệ và phát triển rừng để xác định “trong khu vực rừng phòng hộ” là trên địa bàn cấp xã. Đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm căn cứ khoản 2 Điều 308 Bộ luật tố tụng năm 2015. Chấp nhận kháng cáo của bị đơn, của người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan, kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh P- sửa bản án sơ thẩm; Chấp nhận yêu cầu phản tố của bị đơn, yêu cầu độc lập của người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan công nhận hiệu lực hợp đồng chuyển nhượng QSD đất rừng phòng hộ ngày 27/5/1998 AL giữa vợ chồng ông Ngô S và vợ chồng ông N và hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa vợ chồng ông Nguyễn Hữu N và vợ chồng ông Trần Kỳ T3 ngày 10/6/2003 và ghi nhận sự thỏa thuận của vợ chồng ông N và vợ chồng ông T3.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu tài liệu chứng cứ có tại hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa; căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, ý kiến các bên đương sự, kiểm sát viên, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng: Kháng nghị của VKSND tỉnh P còn trong hạn luật định; Bị đơn, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan kháng cáo và nộp tiền tạm ứng án phí phúc thẩm trong hạn luật định là kháng nghị, kháng cáo hợp lệ được chấp nhận xem xét theo thủ tục phúc thẩm. Đối với người được các đồng nguyên đơn ủy quyền là ông Ngô Văn L đã được triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai vẫn vắng mặt, căn cứ Điều 228 BLTTDS năm 2015, Tòa án vẫn tiến hành xét xử vụ án.

[2] Về nội dung khảng cáo của bị đơn, kháng nghị của Viện kiêm sát nhân dân tỉnh P đề nghị công nhận hiệu lực hợp đồng chuyên nhượng quyền sử dụng đất giữa vợ chồng ông S và vợ chồng ông N.

Về nguồn gốc, diện tích đất tranh chấp:

Đất tranh chấp được UBND huyện S giao đất cho hộ ông Ngô S theo Quyết định số 161/QĐ-UBND ngày 09/3/1992 diện tích 9.216m2, mục đích sử dụng đất xây dựng thổ cư (200m2) và 9.016m2 trồng cây công nghiệp.

Gia đình ông Ngô S sinh sống, canh tác trên đất này đến năm 1998 thì lập giấy ủy quyền, giấy sang nhượng đất cho vợ chồng ông N. Nguyên đơn cho rằng thục đất nhưng không cung cấp được tài liệu, chứng cứ chứng minh. Bị đơn cho rằng nhận chuyển nhượng tại kết luận giám định chữ ký, chữ viết số 104/KL-KTHS ngày 31/8/2022, chữ ký Ngô sắp dưới mục “chồng” trên các tài liệu cần giám định so với một số mẫu so sánh là cùng một người viết ra, chữ ký mang tên Nguyễn Thị Đ không đủ cơ sở kết luận, các chữ ký của Ngô Văn L, Ngô Minh Q, Ngô Thị T1, Ngô Thị D trên Giấy ủy quyền lập năm 2005 là cùng một người viết ra so với mẫu so sánh. Việc vợ chồng ông N sinh sống, canh tác ổn định từ năm 1998 được các đương sự thừa nhận, việc sang nhượng đã được hai bên giao đủ tiền, giấy tờ về đất, có chữ ký của vợ chồng ông S, vợ chồng ông N tuy không có công chứng, chứng thực nhưng được ông Lê Thành L1 cán bộ địa chính thời điểm đó xác nhận. Do đó thực tế có việc chuyển nhượng đất ở, đất trồng cây công nghiệp lâu năm.

Về điều kiện nhận chuyển nhượng đất:

Theo Quyết định số 161/QĐ-UBND ngày 09/3/1992 diện tích 9.216m2, mục đích sử dụng đất xây dựng thổ cư (200m2) và 9.016m2 trồng cây công nghiệp, theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 00263 QSDĐ/Q2BT53 do UBND huyện S cấp cho hộ ông Ngô S gồm 200m2 đất T và 9.016m2 đất R.T.P (đất rừng phòng hộ).

Cấp sơ thẩm căn cứ biên bản xác minh ngày 24/3/2023 tại UBND xã X, ngày 03/4/2023 tại Chi nhánh văn phòng đăng ký đất đai thị xã S để xác định điều kiện chuyển nhượng đất rừng phòng hộ là hộ gia đình, cá nhân sinh sống trong khu vực rừng phòng hộ được hiểu là cùng thôn, căn cứ giấy chứng nhận QSD đất cấp cho hộ ông S để xác định người nhận chuyển nhượng phải cùng thôn D là không phù hợp.

Theo quy định tại điểm c khoản 2 Điều 16 Luật lâm nghiệp năm 2017

“2. Nhà nước giao rừng phòng hộ không thu tiền sử dụng rừng cho các đối tượng sau đây: c) Hộ gia đình, cá nhân cư trú hợp pháp trên địa bàn cấp xã nơi có rùng phòng hộ ...” và tại điểm d khoản 1 Điều 81 Luật lâm nghiệp năm 2017 quy định “1. Hộ gia đình, cá nhân được Nhà nước giao rừng phòng hộ có quyền sau đây: d) Được chuyển đổi diện tích rừng được giao cho hộ gia đình, cá nhân trong cùng xã, phường, thị trấn: ” và tại khoản 2 Điều 21 Luật bảo vệ và phát triển rừng năm 2016 quy định “Nhà nước giao rừng không thu tiền sử dụng rừng cho các đối tượng sau đây: 2. ... hộ gia đình, cá nhân, cộng đồng dân cư cư trú hợp pháp trên địa bàn cấp xã nơi có rừng phòng hộ ...”. Như vậy, điều kiện chuyển nhượng quyền sử dụng đất rừng phòng hộ theo quy định tại khoản 2 Điều 192 Luật đất đai năm 2013 “trong khu vực rừng phòng hộ đó” được hiểu là trong phạm vi hành chính xã, phường, thị trấn. Do đó, vợ chồng N ở cùng xã X nên thỏa mãn điều kiện chuyển nhượng đất rừng phòng hộ. Mặt khác, tại biên bản xác minh ngày 15/11/2023 tại Phòng tài nguyên và môi trường thị xã S cung cấp: theo Quyết định 824/QĐ-UBND ngày 03/7/2023 của UBND tỉnh P thì thửa đất số 40, tờ bản đồ 01 tọa lạc tại thôn D, xã X, thị xã S quy hoạch là đất ở, trong đó có một phần quy hoạch là đất giao thông nên có cơ sở xác định vợ chồng ông N thỏa mãn điều kiện nhận chuyển nhượng thửa đất số 40.

[3] Về nội dung kháng cáo của người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập.

Xét Giấy sang nhượng đất ngày 10/6/2003 giữa vợ chồng ông N, bà B và vợ chồng ông T3, bà H là khoảnh đất trống diện tích đo đạc thực tế 2.824,9m2, thuộc một phần thửa đất số 40, tờ bản đồ số 01. Tại thời điểm chuyển nhượng, vợ chồng ông N chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, theo quy định tại khoản 1 Điều 106 Luật đất đai năm 2003 là vi phạm điều cấm. Tuy nhiên, thửa đất nêu trên được quy hoạch là đất ở, thực tế đã giao 17.000.000đ/20.000.000đ và nhận đất, nên chấp nhận yêu cầu của vợ chồng ông T3, bà H công nhận hợp đồng chuyển nhượng đất giữa vợ chồng ông S cho vợ chồng ông N. Ghi nhận sự tự nguyện của vợ chồng ông Nguyễn Hữu N, bà Huỳnh Thị B và vợ chồng ông Trần Kỳ T3, bà Nguyễn Thị H: vợ chồng ông T3 bà H đã thanh toán 17.000.000đ đối với 2.900m2 đất rừng và 100m2 đất ở là thanh toán 85%, còn lại 3.000.000đ tương ứng với 15% đất rừng quy hoạch đất ở là 435m2 và 15m2 đất ở, còn phải tiếp tục thanh toán cho vợ chồng ông N, bà B giá trị đất theo giá thị trường hiện nay, cụ thể: Theo biên bản định giá ngày 01/12/2023 với giá 630.000đ/m2 đất rừng đã quy hoạch đất ở tương ứng với 435m2 là 274.050.000đ và 15m2 đất ở với giá 1.750.000đ/m2 (theo biên bản định giá ngày 24/3/2023) tương ứng 26.250.000đ, tổng cộng là 300.300.000đ.

Xét kháng cáo của bị đơn vợ chồng ông N, bà B, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan vợ chồng ông T3 bà H, kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh P và lời đề nghị của Kiểm sát viên tại phiên tòa là có căn cứ, được chấp nhận phần - sửa án sơ thẩm: Công nhận hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa vợ chồng ông S và vợ chồng ông N theo Giấy sang nhượng đất trồng cây công nghiệp lâu năm đề ngày 27/5/1998 âm lịch, Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa vợ chồng ông N và vợ chồng ông T3 theo giấy sang nhượng đất ngày 10/6/2003, không chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

[3] Về án phí, lệ phí giám định:

Nguyên đơn phải chịu án phí dân sự sơ thẩm, lệ phí giám định và lệ phí định giá ở giai đoạn sơ thẩm. Riêng bà Nguyễn Thị Đ, sinh năm 1945 là người cao tuổi thuộc đối tượng được miễn án phí theo quy định tại diêm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết 326/2016/UBQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án.

Về chi phí định giá lại tài sản tranh chấp ở cấp phúc thẩm, bị đơn tự nguyện chịu đã nộp đủ.

Bị đơn, người liên quan kháng cáo được nên không phải chịu án phí dân sự phúc thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 2 Điều 308 Bộ luật tố tụng dân sự 2015;

Chấp nhận kháng cáo của bị đơn ông Nguyễn Hữu N, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan vợ chồng ông Trần Kỳ T3 - sửa bản án sơ thẩm.

Căn cứ khoản 1 Điều 30, khoản 2 Điều 31, khoản 1 Điều 33 Luật đất đai năm 1993; Khoản 2 Điều 192 Luật đất đai năm 2013; Điều 129 Bộ luật Dân sự năm 2015; Điều 147, Điều 157, Điều 161, Điều 165 Bộ luật Tố tụng Dân sự; Điều 12, khoản 2 Điều 25, Điều 26, Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án.

Tun xử:

1. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn về việc đòi lại đất, đòi vợ chồng ông Nguyễn Hữu N phải trả lại Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.

Chấp nhận yêu cầu phản tố của bị đơn vợ chồng ông Nguyễn Hữu N, bà Huỳnh Thị B: Công nhận Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa vợ chồng ông Ngô S, bà Nguyễn Thị Đ và vợ chồng ông Nguyên Hữu N, bà Huỳnh Thị B theo Giấy sang nhượng đất trồng cây công nghiệp lâu năm đề ngày 27/05/1998 âm lịch. Công nhận quyền sử dụng đất của vợ chồng ông Nguyễn Hữu N bà Huỳnh Thị B đối với diện tích 9.216m2 gồm 200m2 đất ở và 9.016m2 đất RPH tại thửa đất số 40, tờ bản đồ số 01, đo đạc thực tế 9.205m2 tọa lạc tại thôn D, xã X, thị xã S, tỉnh P, đã được UBND thị xã S cấp Giấy CNQSDĐ số W425563 cho vợ chồng ông Ngô S, bà Nguyễn Thị Đ ngày 03/04/2003.

Chấp nhận yêu cầu độc lập của người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan vợ chồng ông Trần Kỳ T3, bà Nguyễn Thị H: Công nhận Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa vợ chồng ông Nguyễn Hữu N, bà Huỳnh Thị B và vợ chồng ông Trần Kỳ T3 bà Nguyễn Thị H theo Giấy sang nhượng đất ngày 10/06/2003 diện tích 3.000m2 gồm 100m2 đất ở và 2.900m2 đất RPH, đo đạc thực tế 2.824,9m2 thuộc một phần thửa đất số 40, nay là thửa 123 tờ bản đồ số 87 (Đo đạc năm 2012) tọa lạc tại thôn D, thị xã S theo Mảnh đo đạc chỉnh lý bản đồ địa chính số 39-2021 của Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai thị xã S, tỉnh P.

Ghi nhận sự tự nguyện thỏa thuận giữa vợ chồng ông Nguyễn Hữu N, bà Huỳnh Thị B và vợ chồng ông Trần Kỳ T3, bà Nguyễn Thị H: vợ chồng ông Trần Kỳ T3, bà Nguyễn Thị H tiếp tục thanh toán cho vợ chồng ông Nguyễn Hữu N, bà Huỳnh Thị B số tiền 300.300.000đ.

2. Về án phí: Các đồng nguyên đơn ông Ngô Văn L, bà Ngô Thị Đ1, bà Ngô Thị T, bà Ngô Thị D, bà Ngô Thị T1, bà Ngô Thị X, ông Ngô Minh Q, ông Ngô Minh Đ2, bà Ngô Thị D1 mỗi người phải chịu 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) tiền án phí dân sự sơ thẩm. Được trừ vào số tiền tạm ứng án phí mà các đồng nguyên đơn, mỗi người đã nộp 300.000đ, tổng cộng nộp 2.700.000đ (Hai triệu bảy trăm nghìn đồng) tại Biên lai thu tiền số 0000420 ngày 18/11/2019, 0000411 ngày 18/11/2019, 0000412 ngày 18/11/2019, 0000418 ngày 18/11/2019, 0000416 ngày 18/11/2019, 0000417 ngày 18/11/2019, 0000415 ngày 18/11/2019, 0000414 ngày 18/11/2019, 0000413 ngày 18/11/2019 của Chi cục thi hành án dân sự thị xã Sông cầu, tỉnh P.

Bà Nguyễn Thị Đ được miễn án phí theo quy định pháp luật. Hoàn trả cho bà Đ số tiền 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) tiền tạm ứng án phí đã nộp tại Biên lai thu tiền số 0000419 ngày 18/11/2019 của Chi cục thi hành án dân sự thị xã Sông cầu, tỉnh P.

H1 lại cho ông Nguyễn Hữu N số tiền 300.000đ tiền tạm ứng án phí đã nộp tại Biên lai thu tiền số 0003445 ngày 13/10/2022 và 300.000đ tiền tạm ứng án phí đã nộp tại Biên lai thu tiền số 0008593 ngày 18/9/2023 của Chi cục thi hành án dân sự thị xã Sông cầu, tỉnh P, H1 lại cho vợ chồng ông Trần Kỳ T3, bà Nguyễn Thị H 300.000đ) đã nộp tại Biên lai thu tiền số 0005266 ngày 13/05/2021 và 300.000đ tiền tạm ứng án phí đã nộp tại Biên lai thu tiền số 0008592 ngày 18/9/2023 của Chi cục thi hành án dân sự thị xã Sông cầu, tỉnh P.

3. Về lệ phí tố tụng: 10.736.000đ chi phí xem xét, thẩm định tại chỗ, định giá, các đồng nguyên đơn đã nộp đủ.

Về chi phí giám định chữ ký, chữ viết: các đồng nguyên đơn phải chịu số tiền 7.011.000đ, đã nộp đủ.

Chi phí định giá tài sản giai đoạn phúc thẩm 10.000.000đ bị đơn vợ chồng ông N, bà B tự nguyện chịu đã nộp đủ.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

6
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp hợp đồng cầm cố, hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất số 109/2023/DS-PT

Số hiệu:109/2023/DS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Phú Yên
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 12/12/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về