Bản án về tranh chấp hợp đồng bảo lãnh số 72/2023/DS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH NGHỆ AN

BẢN ÁN 72/2023/DS-ST NGÀY 25/10/2023 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG BẢO LÃNH

Ngày 25 tháng 10 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Nghệ An xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 83/2023/TLST-DS ngày 19 tháng 4 năm 2023 về việc “Tranh chấp về hợp đồng bảo lãnh” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 111/2023/QĐXXST-DS ngày 31 tháng 8 năm 2023, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Công ty Cổ phần Q. Địa chỉ: A Đ, phường Đ, quận H, Thành phố Hà Nội. Người đại diện theo pháp luật: Ông Hoàng Thế S - Chức vụ: Tổng giám đốc.

Người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn:

1. Ông Phạm Tuấn D, sinh năm 1973; địa chỉ: 4 T, Trần Quang K, thành phố N, tỉnh Nam Định; có mặt.

2. Bà Đỗ Thị Minh N, sinh năm 1998; địa chỉ: số H, Đặng Văn N1, thành phố H, tỉnh Hưng Yên; vắng mặt.

3. Ông Đoàn Minh T, sinh năm 2001; địa chỉ: Thôn P, xã Y, huyện Y, tỉnh Ninh Bình; vắng mặt.

4. Bà Nguyễn Thị Phương T1, sinh năm 1980; địa chỉ: Số C TT C phường N, quận H, thành phố Hà Nội; vắng mặt.

- Bị đơn: Bà Phạm Thị B, sinh năm 1965; địa chỉ: Xóm A, xã N, huyện N, tỉnh Nghệ An; vắng mặt.

- Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan: Anh Nguyễn Đức P, sinh năm 2000; địa chỉ cư trú trước khi xuất cảnh: Xóm A, xã N, huyện N, tỉnh Nghệ An; hiện đang ở Đài Loan; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện ngày 27/4/2021, đơn bổ sung khởi kiện, các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa, người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn Ông Phạm Tuấn D trình bày:

Ngày 28/4/2022, bà Phạm Thị B đã ký bản cam kết không chạy trốn của lao động Nguyễn Đức P khi tham gia đi làm việc ở nước ngoài, trong trường hợp lao động bỏ trốn khỏi nơi làm việc, tự ý phá vỡ hợp đồng đã ký thì bà Phạm Thị B sẽ phải bồi thường cho Công ty với nội dung sau:

“- Ngay khi biết bên B (Nguyễn Đức P) bỏ trốn, lập tức kêu gọi, động viên bên B sớm quay trở về đầu thú.

- Cam kết bồi thường cho bên C (Công ty Cổ phần Q) số tiền 100.000.000đ (Một trăm triệu đồng) nếu bên B bỏ trốn ra ngoài làm việc bất hợp pháp, thời gian bồi thường trong vòng 10-15 ngày kể từ khi nhân được văn bản thông báo bên B đã bỏ trốn của bên C.

- Không yêu cầu bên C phải chịu bất cứ trách nhiệm gì với bên A và bên B khi bên B vi phạm nội dung hợp đồng này, miễn mọi trách nhiệm về dân sự, hình sự, kinh tế cho bên C.

- Dùng toàn bộ tài sản nhà đất dùng bảo lãnh nêu trên để đảm bảo việc bồi thường cho bên C nếu bên B bỏ trốn hoặc vi phạm Hợp đồng này mà hết 10-15 ngày bên A không có đủ tiền đề bồi thường cho bên C số tiền 100.00.000đ (Một trăm triệu đồng) thì bên C có quyền yêu cầu các cơ quan chức năng có thẩm quyền để xử lý, khởi kiện bên A ra Tòa án nhân dân có thẩm quyền yêu cầu giải quyết theo pháp luật, phát mại tài sản bảo lãnh để bồi thường cho bên C, trong trường hợp tiền phát mại chưa đủ, bên A vẫn phải có trách nhiệm tiếp tục trả đủ tiền bồi thường như đã cam kết trong Hợp đồng này.

- Cam kết khi bên B chưa hết hạn hợp đồng về nước thì tài sản bên A đang dùng bảo lãnh cho bên C không được sang tên, chuyển nhượng, cầm cố cho bất kì ai, nếu vi phạm bên A hoàn toàn chịu trách nhiệm trước pháp luật.” Ngày 08/5/2022, Nguyễn Đức P ký Hợp đồng đi làm việc tại Đài Loan.

Tháng 5/2022, Nguyễn Đức P bay đến Đài Loan để thực hiện hợp đồng.

Ngày 20/6/2022, Nguyễn Đức P đã bỏ trốn.

Ngày 28/6/2022, Công ty Cổ phần Q đã có văn bản thông báo tới gia đình bà Phạm Thị B và gửi về UBND, Công an xã N, huyện N, tỉnh Nghệ An để thông báo về việc lao động Nguyễn Đức P đã bỏ trốn và đề nghị gia đình và địa phương phối hợp giúp đỡ, kêu gọi Nguyễn Đức P quay lại nơi làm việc. Nhưng đến nay gia đình bà Phạm Thị B và lao động Nguyễn Đức P vẫn không có phản hồi về Công ty Cổ phần Q.

Việc công dân Nguyễn Đức P bỏ trốn tại Đài Loan là việc làm vi phạm pháp luật rất nghiêm trọng, cư trú bất hợp pháp tại nước sở tại sẽ phải chịu hình phạt rất nghiêm khắc, đặc biệt về tính mạng, sức khỏe, tài sản và các quyền lợi của công dân đều không được bảo đảm. Mặt khác còn làm thiệt hại nghiêm trọng đến tài sản và uy tín của Công ty Cổ phần Q.

Ngày 24/10/2022, Bộ L có Công văn số 1110523260 gửi Công ty cổ phần Q, kèm theo Công văn là danh sách 40 lao động bỏ trốn trong đó có Nguyễn Đức P với số hộ chiếu co 123490, ngày bỏ trốn 20/6/2022.

Lao động Nguyễn Đức p bỏ trốn thì coi là đã đơn phương chấm dứt hợp đồng, tự ý ở lại nước ngoài trái pháp luật là vi phạm khoản 14, Điều 7 Luật Người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng năm 2020 quy định như sau:

“Các hành vi bị nghiêm cấm trong lĩnh vực người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng:

14. Tự ý ở lại nước ngoài trái pháp luật sau khi chấm dứt hợp đồng lao động, hợp đồng đào tạo nghề.” Theo quy định tại khoản 1, Điều 46 Nghị định 12/2022/NĐ-CP ngày 17/01/2022 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực lao động, bảo hiểm xã hội, người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng thì vi phạm của người lao động đi làm việc ở nước ngoài có thể bị xử phạt vi phạm hành chính như sau:

“1. Phạt tiền từ 80.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng đối với người lao động có hành vi tự ý ở lại nước ngoài trái pháp luật sau khi chấm dứt Hợp đồng lao động hoặc hợp đồng đào tạo nghề mà không phải do bị đe dọa, ép buộc dưới bất kỳ hình thức nào và không thuộc trường hợp bị truy cứu trách nhiệm hình sự.” Lao động Nguyễn Đức P còn phải có nghĩa vụ bồi thường thiệt hại cho Công ty cổ phần Q theo quy định tại điểm e, khoản 2, Điều 6, Luật người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng năm 2020 quy định như sau:

“2. Người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng có các nghĩa vụ sau đây:

e) Bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng đã ký theo quy định của pháp luật Việt Nam và pháp luật của nước tiếp nhận lao động.” Người bảo lãnh cho lao động là bà Phạm Thị B phải thanh toán giá trị nghĩa vụ vi phạm đã thỏa thuận (100.000.000đ) và bồi thường thiệt hại theo quy định tại khoản 3, Điều 56 Luật người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng năm 2020 quy định như sau:

“3. Việc bảo lãnh được thực hiện theo quy định của Bộ luật dân sự. Trường hợp bên bảo lãnh không thực hiện đúng nghĩa vụ bảo lãnh thì doanh nghiệp dịch vụ, đơn vị sự nghiệp có quyền yêu cầu bên bảo lãnh thanh toán giá trị nghĩa vụ vi phạm và bồi thường thiệt hại.” Từ nội dung sự việc như trên, Công ty Cổ phần Q1 đề nghị Tòa án nhân dân tỉnh Nghệ An giải quyết theo quy định của pháp luật đối với những yêu cầu:

- Buộc người bảo lãnh bà Phạm Thị B thực hiện đúng nội dung Hợp đồng bảo lãnh và Biên bản làm việc chống bỏ trốn đã ký kết với Công ty Cổ phần Q, bồi thường cho Công ty Cổ phần Q số tiền 100.000.000 đồng.

- Miễn trừ mọi trách nhiệm công ty Cổ phần Q đối với bên A và bên B do bên B bỏ trốn, vi phạm hợp đồng.

Về phía bị đơn bà Phạm Thị B: Trong quá trình giải quyết vụ án, mặc dù đã được Tòa án gửi các văn bản tố tụng, triệu tập nhiều lần nhưng bà Phạm Thị B không tham gia hoà giải, không trình bày lời khai về yêu cầu khởi kiện của Công ty Cổ phần Q.

Đối với người có quyền li, nghĩa vụ liên quan anh Nguyễn Đức P: Do anh Nguyễn Đức P đã vắng theo hợp đồng ban đầu nên hiện tại nguyên đơn không cung cấp được địa chỉ của anh Nguyễn Đức P cho Tòa án. Tại Công văn số 2728/QLXNC-P5 ngày 13/02/2023 của Cục Q2 - Bộ C xác định anh Nguyễn Đức P đã xuất cảnh ngày 18/5/2022, hiện chưa có thông tin nhập cảnh về nước.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Nghệ An phát biểu ý kiến:

Về tố tụng: Trong quá trình thụ lý, giải quyết vụ án, Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký Tòa án chấp hành đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.

Nguyên đơn, người thân của anh Nguyễn Đức P không cung cấp được địa chỉ của người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan là anh Nguyễn Đức P ở nước ngoài. Việc anh Nguyễn Đức P thay đổi địa chỉ, nơi cư trú, làm việc nhưng không thông báo cho nguyên đơn về nơi cư trú mới được coi là cố tình giấu địa chỉ, từ chối khai báo.

Về nội dung: Đề nghị áp dụng Điều 227, 479 Bộ luật tố tụng dân sự; Điều 335, Điều 336, Điều 339, Điều 342, Điều 357, Điều 468 Bộ luật dân sự; Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Công ty Cổ phần Q: Buộc Bà Phạm Thị B phải bồi thường cho Công ty cổ phần Q số tiền 100.000.000 đồng (Một trăm triệu đồng).

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về thủ tục tố tụng:

[1.1] Về quan hệ pháp luật tranh chấp: Nguyên đơn khởi kiện yêu cầu bị đơn thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh (bồi thường thay) cho người lao động đi làm việc ở nước ngoài. Theo hướng dẫn tại Điều 2 Thông tư liên tịch số: 01/2010/TTLT-TANDTC-BLĐTB&XH-VKSNDTC ngày 18/5/2010 của Tòa án nhân dân tối cao, Bộ L1, Viện kiểm sát nhân dân tối cao “Hướng dẫn áp dụng một số quy định của pháp luật trong quá trình giải quyết tranh chấp hợp đồng bảo lãnh cho người lao động đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng tại Tòa án nhân dân” thì nội dung khởi kiện trên là một loại tranh chấp dân sự, do đó Hội đồng xét xử xác định đây là vụ kiện tranh chấp hợp đồng dân sự (Hợp đồng bảo lãnh) theo khoản 3 Điều 26 Bộ luật Tố tụng dân sự.

[1.2] Về thẩm quyền: Tại Công văn số 16948/QLXNC-P5 ngày 02/8/2021 của Cục Q2 - Bộ C xác định anh Nguyễn Đức P đã xuất cảnh ngày 24/12/2020, hiện chưa có thông tin nhập cảnh về nước anh Nguyễn Đức P là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đang ở nước ngoài. Tuy nhiên, anh Nguyễn Đức P đã bỏ đi khỏi nơi làm việc theo hợp đồng ban đầu nên nguyên đơn không cung cấp được địa chỉ cho Tòa án và quá trình giải quyết vụ án bà Phạm Thị B (mẹ của anh P) là người bảo lãnh cũng không hợp tác. Do đó, việc anh Nguyễn Đức P thay đổi địa chỉ, nơi cư trú, làm việc nhưng không thông báo cho nguyên đơn về nơi cư trú mới được coi là cố tình giấu địa chỉ, từ chối khai báo. Đối với bị đơn bà Phạm Thị B, Tòa án đã tống đạt các văn bản tố tụng, quyết định đưa vụ án ra xét xử, quyết định hoãn phiên tòa hợp lệ nhiều lần, nhưng bị đơn vắng mặt không có lý do. Vì vậy, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan theo quy định định tại Điều 227 của Bộ luật tố tụng dân sự.

[2] Về nội dung:

[2.1] Ngày 28/4/2022, Công ty Cổ phần Q (Gọi Công ty Q) bà Phạm Thị B và anh Nguyễn Đức P ký Hợp đồng bảo lãnh và đã ký bản cam kết không chạy trốn của lao động Nguyễn Đức P.

Trong đó, các bên thỏa thuận cam kết có nội dung: Cam kết bồi thường cho bên C (Công ty Cổ phần Q) số tiền 100.000.000đ (Một trăm triệu đồng) nếu bên B (Nguyễn Đức P) bỏ trốn ra ngoài làm việc bất hợp pháp, thời gian bồi thường trong vòng 10-15 ngày kể từ khi nhận được văn bản thông báo bên B đã bỏ trốn của bên C.

Ngày 24/10/2022, Bộ lao động Đài Loan có Công văn số 1110523260 gửi Công ty Cổ phần Q, kèm theo Công văn là danh sách 40 lao động bỏ trốn trong đó có Nguyễn Đức P với số hộ chiếu C0123490, ngày bỏ trốn 20/6/2022.

[2.2] Xét thấy việc anh Nguyễn Đức P, bà Phạm Thị B và Công ty Cổ phần Q lập văn bản Thỏa thuận cam kết với nhau trên cơ sở hoàn toàn tự nguyện, nội dung cam kết không vi phạm điều cấm của pháp luật, không trái đạo đức xã hội. Theo đó, bà Phạm Thị B cam kết nếu anh Nguyễn Đức P (con của bà B) bỏ trốn Công ty Cổ phần Q với số tiền Việt Nam đồng tương đương số tiền Việt Nam đồng là 100.000.000 đồng);

Vì vậy, Công ty cổ phần Q khởi kiện yêu cầu bà Phạm Thị B là người cam kết bảo lãnh cho anh P phải có trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ bồi thường cho Công ty Q số tiền đã cam kết là có căn cứ được chấp nhận.

[3] Về án phí: Yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn được chấp nhận nên bị đơn bà Phạm Thị B phải chịu án phí dân sự sơ thẩm. Hoàn trả lại số tiền tạm ứng án phí cho nguyên đơn đã nộp.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 3 Điều 26, điềm a khoản 1 Điều 37, Điều 227, Điều 273, Điều 479 Bộ luật tố tụng dân sự; Điều 335, Điều 336, Điều 339, Điều 342, Điều 357, Điều 468 Bộ luật dân sự; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí và lệ phí Tòa án. Tuyên xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Công ty Cổ phần Q.

1. Buộc Bà Phạm Thị B phải bồi thường cho Công ty Cổ phần Q số tiền 100.000.000 đồng (Một trăm triệu đồng).

Kể từ ngày người được thi hành án có đơn yêu cầu thi hành án cho đến khi thi hành xong các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền chậm thi hành án tương ứng với thời gian chậm thi hành án theo quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật dân sự năm 2015.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 của Luật Thi hành án dân sự năm 2008 (sửa đổi, bổ sung năm 2014) thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 của Luật Thi hành án dân sự năm 2008 (sửa đổi, bổ sung năm 2014); thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 của Luật Thi hành án dân sự năm 2008 (sửa đổi, bổ sung năm 2014).

2. Án phí dân sự sơ thẩm:

- Buộc bị đơn bà Phạm Thị B phải chịu 5.000.000 đồng (năm triệu đồng) án phí dân sự sơ thẩm;

- Trả lại cho Công ty cổ phần Q số tiền 2.500.000 đồng (hai triệu năm trăm nghìn đồng) tạm ứng án phí đã nộp tại Cục Thi hành án dân sự tỉnh Nghệ An theo Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án 0012823 ngày 19/4/2023.

3. Về quyền kháng cáo:

Nguyên đơn Công ty cổ phần Q có quyền kháng cáo bản án lên Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị đơn bà Phạm Thị B vắng mặt có quyền kháng cáo bản án lên Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội trong hạn 15 ngày kề từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết hợp lệ. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt có quyền kháng cáo bản án lên Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội trong hạn 01 tháng kể từ ngày bản án được tống đạt hợp lệ hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết hợp lệ./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

115
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp hợp đồng bảo lãnh số 72/2023/DS-ST

Số hiệu:72/2023/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Nghệ An
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 25/10/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về