TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH NAM ĐỊNH
BẢN ÁN 57/2023/DS-PT NGÀY 13/12/2023 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG BẢO HIỂM
Ngày 13 tháng 12 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Nam Định xét xử phúc thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 46/2023/TLPT-DS ngày 16 tháng 10 năm 2023 về việc “Tranh chấp hợp đồng bảo hiểm”. Do Bản án dân sự sơ thẩm số 55/2023/DS-ST ngày 10 tháng 7 năm 2023 của Tòa án nhân dân thành phố Nam Định, tỉnh Nam Định có kháng cáo của Tổng công ty cổ phần bảo hiểm B là đơn vụ án. Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 56/2023/QĐXXPT- DS ngày 02 tháng 11 năm 2023 và Quyết định hoãn phiên tòa số 133/2023/QĐ- PT ngày 16 tháng 11 năm 2023, giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Chị Dương Thị H, sinh năm 1981; nơi cư trú: Thôn L, xã Đ, huyện H, tỉnh Tuyên Quang.
Người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn: Bà Hoàng Thị T, sinh năm 1966;
nơi cư trú: Thôn L, xã T, huyện H, tỉnh Tuyên Quang. Có mặt tại phiên tòa.
- Bị đơn: Tổng công ty cổ phần bảo hiểm B; địa chỉ trụ sở: Số 95 phố T, phường D, quận C, Thành phố Hà Nội.
Người đại diện theo pháp luật: Bà Hoàng Thị Y - Chức vụ: Tổng giám đốc;
Người đại diện theo ủy quyền: Ông Hồ Đình Q (Theo Giấy ủy quyền số 1024/GUQ-PTI-PCKSNB ngày 01-12-2023. Có mặt tại phiên tòa.
NỘI DUNG VỤ ÁN
1. Tại đơn khởi kiện đề ngày 17-12-2023 và trong quá trình tham gia tố tụng, người đại diện theo ủy quyền nguyên đơn (chị Dương Thị H) là bà Hoàng Thị T trình bày: Ngày 19-02-2022 chị Dương Thị H mua bảo hiểm thông qua hình thức đơn bảo hiểm điện tử với Công ty Bảo hiểm Bưu điện Nam Định là đơn vị trực thuộc của Tổng công ty cổ phần bảo hiểm B. Gói bảo hiểm mua cho chị Dương Thị H thuộc chương trình “PTI VỮNG TÂM AN +”, được thực hiện theo Quy tắc bảo hiểm số 270/QĐ-PTI-BHCN của Tổng công ty cổ phần bảo hiểm B. Toàn bộ thủ tục đăng ký mua bảo hiểm, nộp phí bảo hiểm, cấp giấy chứng nhận bảo hiểm cho chị Dương Thị H đều được thực hiện online trên hệ thống phần mềm của Tổng công ty cổ phần bảo hiểm B. Việc chị Dương Thị H mua bảo hiểm đã được cấp Giấy chứng nhận bảo hiểm số 0000682/GCN/040-KTTT/VTA- PLUS/2022 ngày 19-02-2022. Giấy chứng nhận bảo hiểm có các nội dung cụ thể như sau:
- Người mua bảo hiểm là chị Dương Thị H; người được bảo hiểm là chị Dương Thị H.
- Thời hạn bảo hiểm đối với chị Dương Thị H là 12 tháng, tính từ ngày 20- 02-2022 đến ngày 20-02-2023.
- Phí bảo hiểm là 790.000 đồng. Phí bảo hiểm đã được chị Dương Thị H đóng toàn bộ một lần vào ngày 19-02-2022.
- Quyền lợi bảo hiểm: Người được bảo hiểm được hưởng quỹ trợ cấp nằm viện điều trị dịch bệnh tại các cơ sở y tế khi người được bảo hiểm nhập viện sau 03 ngày kể từ ngày bắt đầu bảo hiểm là 12.000.000 đồng. Đối với người được bảo hiểm đã tiêm chủng phòng ngừa dịch bệnh thì quỹ trợ cấp này tăng gấp đôi, tức là sẽ được hưởng 24.000.000 đồng.
Chị Dương Thị H đã được tiêm chủng phòng ngừa bệnh Covid-19 mũi 2 vào ngày 12-02-2022 tại Trạm Y tế xã Thái Hòa, huyện Hàm Yên, tỉnh Tuyên Quang. Ngày 06-3-2022, chị Dương Thị H được đưa vào điều trị tại “Cơ sở `T điều trị Covid-19 thuộc Trung tâm Y tế huyện Hàm Yên - Sở Y tế tỉnh Tuyên Quang” để điều trị bệnh Covid-19. Ngày 07-3-2022 thì chị Dương Thị H được xác định bị mắc bệnh Covid-19 theo Phiếu xét nghiệm PCR của Công ty CP BVĐK An Sinh - Bệnh viện đa khoa Phương Bắc. Đến ngày 12-3-2022 chị Dương Thị H được ra viện.
Sau khi sự kiện bảo hiểm xảy ra, chị Dương Thị H đã làm thủ tục thông báo việc chị bị mắc bệnh Covid-19 và phải điều trị tại cơ sở y tế cho Tổng công ty cổ phần bảo hiểm B. Các giấy yêu cầu bảo hiểm, chứng từ điều trị của chị Dương Thị H đã được chụp ảnh và cập nhật trên hệ thống phần mềm của Tổng công ty cổ phần bảo hiểm B ngay trong tháng 3/2022. Ngoài việc khai báo online, chị Dương Thị H còn gửi bộ hồ sơ gốc yêu cầu bảo hiểm và chứng từ điều trị cho Tổng công ty cổ phần bảo hiểm B theo đường bưu chính.
Ngày 10-5-2022, Tổng công ty cổ phần bảo hiểm B có thông báo giải quyết quỹ hỗ trợ với mức chi hỗ trợ cho chị Dương Thị H là 12.000.000 đồng. Chị Dương Thị H không đồng ý với mức hỗ trợ nói trên và yêu cầu Tổng công ty cổ phần bảo hiểm B phải thực hiện trả tiền bảo hiểm cho chị Dương Thị H là 24.000.000 đồng với lý do theo Giấy chứng nhận bảo hiểm số 0000682/GCN/040- KTTT/VTA-PLUS/2022 ngày 19-02-2022 và Phụ lục tại trang 2 thì trường hợp của chị Dương Thị H đã thỏa mãn tất cả các điều kiện của hợp đồng bảo hiểm. Cụ thể là chị Dương Thị H đã bị mắc bệnh Covid-19 sau hơn 03 ngày kể từ ngày bắt đầu bảo hiểm, đã được tiêm chủng phòng ngừa bệnh Covid-19, đã được điều trị tại cơ sở y tế do cơ quan nhà nước có thẩm quyền thành lập; đồng thời trường hợp của chị Dương Thị H không thuộc bất cứ điểm loại trừ nào theo Quy tắc bảo hiểm số 270/QĐ-PTI-BHCN và Giấy chứng nhận bảo hiểm số 0000682/GCN/040- KTTT/VTA-PLUS/2022 ngày 19-02-2022 của Tổng công ty cổ phần bảo hiểm B.
Ngoài ra, theo quy định của khoản 3, mục tóm tắt nội dung bảo hiểm của Giấy chứng nhận bảo hiểm số 0000682/GCN/040-KTTT/VTA-PLUS/2022 ngày 19-02-2022 thì Tổng công ty cổ phần bảo hiểm B phải trả tiền bảo hiểm trong thời hạn 10 ngày làm việc kể từ ngày nhận được bộ hồ sơ đầy đủ và hợp lệ. Tổng công ty cổ phần bảo hiểm B đã tiếp nhận bộ hồ sơ yêu cầu bồi thường hợp lệ của chị Dương Thị H từ ngày 17-3-2022, thời hạn cuối cùng phải trả tiền bảo hiểm là ngày 31-3-2022, ngày bắt đầu vi phạm nghĩa vụ trả tiền là từ ngày 01-4-2022. Vì vậy Tổng công ty cổ phần bảo hiểm B phải trả tiền chậm trả đối với số tiền bảo hiểm theo quy định tại Điều 357 và Điều 468 Bộ luật Dân sự năm 2015 với mức lãi suất 10%/năm, kể từ ngày 01-4-2022 cho đến khi thanh toán xong số tiền bảo hiểm của chị Dương Thị H.
Nay chị Dương Thị H đề nghị Tòa án giải quyết các vấn đề sau:
1- Buộc Tổng công ty cổ phần bảo hiểm B phải thực hiện trả tiền bảo hiểm cho trường hợp của chị Dương Thị H là 24.000.000 đồng (hai mươi bốn triệu đồng).
2- Buộc Tổng công ty cổ phần bảo hiểm B phải trả tiền chậm trả tiền bảo hiểm theo quy định tại Điều 357 và Điều 468 Bộ luật Dân sự năm 2015 với mức lãi suất 10%/năm đối với số tiền bảo hiểm chậm trả.
3- Đề nghị cơ quan có thẩm quyền xử phạt PTI tội chậm trả tiền bồi thường theo khoản 1 Điều 14 Nghị định số 11/VBHN-BTC ngày 05-02-2020.
4- Đề nghị PTI chi trả tiền phát sinh chi phí đi lại bao gồm vé xe từ nơi cư trú của nguyên đơn đến Tòa án căn cứ theo các lần Tòa án triệu tập nguyên đơn.
Trong quá trình giải quyết vụ án, người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn là bà Hoàng Thị T rút một phần yêu cầu khởi kiện về việc Buộc PTI phải trả tiền chậm trả theo quy định điều 357 và điều 468 Bộ luật dân sự năm 2015; Buộc PTI chi trả tiền phát sinh chi phí đi lại; Đề nghị cơ quan có thẩm quyền xử phạt PTI tội chậm trả tiền bồi thường theo khoản 1 Điều 14 Nghị định số 11/VBHN-BTC ngày 05-02-2020. Bà chỉ yêu cầu Tòa án buộc PTI phải trả tiền bồi thường cho chị Dương Thị H với số tiền theo thoả thuận trên giấy chứng nhận bảo hiểm là 24.000.000 đồng.
2. Trong quá trình giải quyết vụ án, người đại diện theo ủy quyền của bị đơn (Tổng công ty cổ phần bảo hiểm B) là ông Hà Minh Tấn và tại phiên tòa ông Hoàng Văn Y trình bày:
Ngày 19-02-2022 chị Dương Thị H đã mua bảo hiểm cho chị Dương Thị H thuộc chương trình “PTI VỮNG TÂM AN +”, được thực hiện theo Quy tắc bảo hiểm số 270/QĐ-PTI-BHCN của Tổng công ty cổ phần bảo hiểm B. Thủ tục đăng ký mua bảo hiểm, nộp phí bảo hiểm, cấp giấy chứng nhận bảo hiểm cho chị Dương Thị H được thực hiện online trên hệ thống phần mềm của Tổng công ty cổ phần bảo hiểm B. Chị Dương Thị H đã được cấp Giấy chứng nhận bảo hiểm số 0000682/GCN/040-KTTT/VTA-PLUS/2022 ngày 19-02-2022. Thời hạn bảo hiểm đối với chị Dương Thị H là 12 tháng, tính từ ngày 20-02-2022 đến ngày 20- 02-2023. Phí bảo hiểm là 790.000 đồng, đã được chị Dương Thị H đóng toàn bộ vào ngày 19-02-2022.
Sau khi chị Dương Thị H bị mắc bệnh Covid-19 và được điều trị tại Cơ sở `T điều trị Covid-19 thuộc Trung tâm Y tế huyện Hàm Yên - Sở Y tế tỉnh Tuyên Quang, chị Dương Thị H đã làm thủ tục thông báo trên hệ thống phần mềm của Tổng công ty cổ phần bảo hiểm B. Tổng công ty cổ phần bảo hiểm B cũng đã nhận được bộ hồ sơ gốc yêu cầu trả tiền bảo hiểm của khách hàng chị Dương Thị H, bao gồm giấy yêu cầu bảo hiểm và các chứng từ điều trị của chị Dương Thị H từ ngày 17-3-2022. Tổng công ty cổ phần bảo hiểm B không yêu cầu chị Dương Thị H bổ sung thêm hồ sơ, tài liệu gì khác.
Chị Dương Thị H mắc bệnh Covid-19 là thuộc sự kiện bảo hiểm quy định trong chương trình bảo hiểm “PTI VỮNG TÂM AN +”. Tuy nhiên do chị Dương Thị H bị mắc bệnh Covid-19 sau khi Chính phủ thực hiện chủ trương miễn dịch cộng đồng, số lượng người mắc bệnh Covid-19 rất nhiều. Để giải quyết việc điều trị cho người mắc bệnh Covid-19, Bộ Y tế đã ban hành Quyết định số 5525/QĐ- BYT ngày 01-12-2021 và Quyết định 250/QĐ-BYT ngày 28-01-2022 để phân loại nhóm nguy cơ cần điều trị tại cơ sở y tế. Theo hướng dẫn của các văn bản trên thì chị Dương Thị H mắc bệnh Covid-19, nhưng không thuộc nhóm nguy cơ cần điều trị tại cơ sở y tế. Vì vậy trường hợp của chị Dương Thị H là không thuộc trường hợp được trả tiền bảo hiểm. Tổng công ty cổ phần bảo hiểm B đã thông báo đồng ý hỗ trợ cho chị Dương Thị H số tiền là 12.000.000 đồng (mười hai triệu đồng) nhưng chị Dương Thị H không đồng ý.
Hiện tại Tổng công ty cổ phần bảo hiểm B yêu cầu Tòa án giải quyết tranh chấp bảo hiểm theo quy định của pháp luật. Đồng thời, Tổng công ty cổ phần bảo hiểm B không chấp nhận yêu cầu của chị Dương Thị H về việc trả tiền chậm trả đối với số tiền bảo hiểm vì giữa hai bên xảy ra tranh chấp chi trả tiền bảo hiểm.
Tại phiên tòa:
Bà T vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện yêu cầu Tòa án buộc PTI phải trả tiền bảo hiểm cho trường hợp của chị Dương Thị H với số tiền là 24.000.000 đồng, đồng thời bổ sung yêu cầu khởi kiện đề nghị Tổng công ty cổ phần bảo hiểm B phải trả lãi suất tiền chậm trả tiền bảo hiểm theo quy định tại Điều 357 và Điều 468 Bộ luật Dân sự năm 2015 với mức lãi suất 10%/năm đối với số tiền bảo hiểm chậm trả.
Ông Hoàng Văn Y trình bày: Đề nghị Tòa án giải quyết tranh chấp hợp đồng bảo hiểm theo quy định của pháp luật và không chấp nhận yêu cầu của phía nguyên đơn về việc trả tiền chậm trả đối với số tiền bảo hiểm vì giữa hai bên xảy ra tranh chấp chi trả tiền bảo hiểm.
Từ nội dung trên, Bản án dân sự sơ thẩm số 55/2023/DS-ST ngày 10 tháng 7 năm 2023 của Tòa án nhân dân thành phố Nam Định, tỉnh Nam Định đã quyết định: Căn cứ Điều 357, Điều 468 của Bộ luật Dân sự 2015; Căn cứ Điều 13, Điều 14, Điều 15, Điều 16, điểm c khoản 2 Điều 17, Điều 22, Điều 29 của Luật kinh doanh bảo hiểm năm 2000 (sửa đổi, bổ sung năm 2019); Căn cứ khoản 3 Điều 26; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm b khoản 1 Điều 40; khoản 1 Điều 147; điểm c, g khoản 1 Điều 217; Điều 218 của Bộ luật Tố tụng dân sự; Căn cứ khoản 2 Điều 26 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa XIV; Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 13 của Nghị quyết số 01/2019/NQ-HĐTP ngày 11-01-2019 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao.
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Dương Thị H.
1.1. Buộc Tổng công ty cổ phần bảo hiểm B phải trả cho chị Dương Thị H số tiền bảo hiểm là 24.000.000 đồng (hai mươi bốn triệu đồng).
1.2. Buộc Tổng công ty cổ phần bảo hiểm B phải trả cho chị Dương Thị H số tiền chậm trả đối với số tiền bảo hiểm kể từ ngày 01-4-2022 đến hết ngày xét xử sơ thẩm 10-7-2023 là 3.066.600 đồng (Ba triệu, không trăm, sáu mươi sáu nghìn, sáu trăm đồng).
Kể từ ngày tiếp theo của ngày xét xử sơ thẩm, Tổng công ty cổ phần bảo hiểm B phải tiếp tục trả tiền chậm trả đối với số tiền bảo hiểm phải trả theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân sự năm 2015 cho đến khi thanh toán xong toàn bộ số tiền bảo hiểm.
2. Đình chỉ xét xử đối với yêu cầu khởi kiện của chị Dương Thị H về việc đề nghị cơ quan có thẩm quyền xử phạt hành chính đối với Tổng công ty cổ phần bảo hiểm B do chậm trả tiền bồi thường.
3. Đình chỉ xét xử đối với yêu cầu khởi kiện của chị Dương Thị H về việc đề nghị Tổng công ty cổ phần bảo hiểm B chi trả tiền phát sinh chi phí đi lại.
Ngoài ra, bản án còn tuyên lãi suất chậm thi hành án, án phí và quyền kháng cáo cho các đương sự.
Ngày 19/7/2023, Tổng công ty cổ phần bảo hiểm B làm đơn kháng cáo với nội dung: Không đồng ý với toàn bộ nội dung bản án sơ thẩm và kháng cáo toàn bộ bản án, sẽ có văn bản trình bày chi tiết lý do kháng cáo nộp cho Tòa án cấp phúc thẩm. Đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm xét xử đúng quy định của pháp luật bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của Công ty.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Nam Định phát biểu quan điểm:
Về tố tụng: Những người tiến hành tố tụng và tham gia tố tụng đã chấp hành đúng những quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.
Về nội dung: Đề nghị HĐXX áp dụng khoản 1 Điều 308 Bộ luật Tố tụng dân sự. Không chấp nhận kháng cáo của Tổng công ty cổ phần bảo hiểm B, giữ nguyên bản án sơ thẩm; Về án phí đương sự phải nộp theo quy định pháp luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về tố tụng: Sau khi xét xử sơ thẩm, Tổng công ty cổ phần bảo hiểm B có đơn kháng cáo trong thời hạn luật định nên được chấp nhận. Tại phiên tòa, nguyên đơn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện; người kháng cáo giữ nguyên yêu cầu kháng cáo.Các đương sự không thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án.
[2] Xét nội dung kháng cáo của Tổng công ty cổ phần bảo hiểm B:
[2.1] Về tranh chấp bảo hiểm:
[2.1.1] Về việc giao kết hợp đồng: Ngày 19-02-2022 chị Dương Thị H mua bảo hiểm cho chị Dương Thị H thông qua hình thức đơn bảo hiểm điện tử với Công ty Bảo hiểm Bưu điện Nam Định, là đơn vị trực thuộc của Tổng công ty cổ phần bảo hiểm B. Sau khi chị Dương Thị H đã đóng đầy đủ phí bảo hiểm, Công ty Bảo hiểm Bưu điện Nam Định đã cấp Giấy chứng nhận bảo hiểm số 0000682/GCN/040-KTTT/VTA-PLUS/2022 ngày 19-02-2022. Giấy chứng nhận bảo hiểm và Phụ lục kèm theo có ghi các nội dung cụ thể của hợp đồng bảo hiểm, bao gồm: Người mua bảo hiểm là chị Dương Thị H, người được bảo hiểm là chị Dương Thị H; thời hạn bảo hiểm đối với chị Dương Thị H là 12 tháng, tính từ ngày 20-02-2022 đến ngày 20-02-2023; phí bảo hiểm là 790.000 đồng; quyền lợi bảo hiểm: Người được bảo hiểm được hưởng quỹ trợ cấp nằm viện điều trị dịch bệnh tại các cơ sở y tế khi người được bảo hiểm nhập viện sau 03 ngày kể từ ngày bắt đầu bảo hiểm là 12.000.000 đồng. Đối với người được bảo hiểm đã tiêm chủng phòng ngừa dịch bệnh thì quỹ trợ cấp này tăng gấp đôi, tức là sẽ được hưởng 24.000.000 đồng. Ngoài ra giấy chứng nhận bảo hiểm và phụ lục kèm theo còn có các nội dung về điều khoản loại trừ trách nhiệm bảo hiểm, thời hạn trả tiền bảo hiểm... Căn cứ Điều 13, Điều 14, Điều 15, Điều 22 Luật kinh doanh bảo hiểm năm 2000 (sửa đổi, bổ sung năm 2019) thì hợp đồng bảo hiểm giữa chị Dương Thị H và Tổng công ty cổ phần bảo hiểm B là hợp pháp và có hiệu lực thực hiện; trách nhiệm bảo hiểm của Tổng công ty cổ phần bảo hiểm B đối với chị Dương Thị H phát sinh từ ngày 20-02-2022 đến ngày 20-02-2023.
2.2. Về sự kiện bảo hiểm: Căn cứ vào Phiếu xét nghiệm PCR ngày 07-3- 2022 của Công ty CP BVĐK An Sinh - Bệnh viện đa khoa Phương Bắc thì chị Dương Thị H bị mắc bệnh Covid-19. Như vậy, chị Dương Thị H đã bị mắc bệnh Covid-19 sau 15 ngày kể từ ngày được bắt đầu bảo hiểm là ngày 20-02-2022. Ngày 06-3-2022, chị Dương Thị H đã được đưa vào Cơ sở `T điều trị Covid-19 thuộc Trung tâm Y tế huyện Hàm Yên - Sở Y tế tỉnh Tuyên Quang; đây là cơ sở y tế hợp pháp được Sở Y tế tỉnh Tuyên Quang thành lập để điều trị cho các bệnh nhân mắc Covid-19. Các tình tiết trên là cơ sở để xác định sự kiện bảo hiểm được nêu trong Giấy chứng nhận bảo hiểm số 0000682/GCN/040- KTTT/VTA-PLUS/2022 ngày 19-02-2022 và phụ lục kèm theo đã xảy ra trong thời hạn bảo hiểm của chị Dương Thị H.
2.3. Về nghĩa vụ trả tiền bảo hiểm: Căn cứ nhận định tại mục 2.2 về việc chị Dương Thị H bị mắc bệnh Covid-19 trong thời hạn bảo hiểm, được điều trị tại cơ sở y tế hợp pháp là sự kiện bảo hiểm được nêu trong Giấy chứng nhận bảo hiểm số 0000682/GCN/040-KTTT/VTA-PLUS/2022 ngày 19-02-2022 và phụ lục kèm theo; đồng thời việc chị Dương Thị H bị mắc bệnh Covid-19 không thuộc bất cứ điểm loại trừ nào được ghi trong Quy tắc bảo hiểm số 270/QĐ-PTI-BHCN và Giấy chứng nhận bảo hiểm số 0000682/GCN/040-KTTT/VTA-PLUS/2022 ngày 19-02-2022. Vì vậy, căn cứ Điều 16 và điểm c khoản 2 Điều 17 Luật kinh doanh bảo hiểm năm 2000 (sửa đổi, bổ sung năm 2019) thì Tổng công ty cổ phần bảo hiểm B có nghĩa vụ trả tiền bảo hiểm cho người thụ hưởng là chị Dương Thị H theo quy định của hợp đồng bảo hiểm.
Do chị Dương Thị H bị mắc bệnh Covid-19 sau khi đã được tiêm chủng phòng ngừa dịch bệnh Covid-19, vì vậy căn cứ quy định tại phụ lục của Giấy chứng nhận bảo hiểm số 0000682/GCN/040-KTTT/VTA-PLUS/2022 ngày 19- 02-2022 thì số tiền bảo hiểm cho trường hợp của chị Dương Thị H là 24.000.000 đồng.
Đối với quan điểm của Tổng công ty cổ phần bảo hiểm B cho rằng chị Dương Thị H mắc bệnh Covid-19, nhưng không thuộc nhóm nguy cơ cần điều trị tại cơ sở y tế theo hướng dẫn tại Quyết định số 5525/QĐ-BYT ngày 01-12-2021 và Quyết định 250/QĐ-BYT ngày 28-01-2022 của Bộ Y tế, do đó trường hợp của chị Dương Thị H là không thuộc trường hợp được trả tiền bảo hiểm. Hội đồng xét xử thấy rằng: Căn cứ mục 3 Quyết định số 5525/QĐ-BYT ngày 01-12-2021 của Bộ Y tế thì chị Dương Thị H thuộc loại nguy cơ trung bình, định hướng điều trị tại “bệnh viện hoặc cơ sở `T điều trị Covid-19, trong trường hợp quá tải thì có thể xem xét điều trị tại cộng đồng”; căn cứ ghi chú tại bảng 4, mục 6.1 Quyết định 250/QĐ-BYT ngày 28-01-2022 của Bộ Y tế về nguyên tắc điều trị thì “người bệnh nhiễm COVID-19 không triệu chứng hoặc mức độ nhẹ có thể điều trị tại nhà hoặc các cơ sở `T điều trị COVID-19 tuỳ theo tình hình dịch tại từng địa phương”. Trường hợp của chị Dương Thị H thực tế đã được cơ sở y tế có thẩm quyền tiếp nhận và điều trị bệnh Covid-19, như vậy là thuộc trường hợp cần thiết phải điều trị tại cơ sở y tế. Quan điểm của Tổng công ty cổ phần bảo hiểm B cho rằng chị Dương Thị H mắc bệnh Covid-19, nhưng không thuộc nhóm nguy cơ cần điều trị tại cơ sở y tế nên không được trả tiền bảo hiểm là không có cơ sở chấp nhận.
2.4. Về nghĩa vụ chậm trả: Tại phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ ngày 05-4-2023 bà T rút yêu cầu khởi kiện về việc buộc PTI thanh toán lãi suất chậm trả tiền bảo hiểm theo quy định tại Điều 357 và Điều 468 Bộ luật Dân sự năm 2015 với mức lãi suất 10%/năm đối với số tiền bảo hiểm chậm trả. Nay tại phiên tòa, bà T bổ sung yêu cầu khởi kiện tiếp tục yêu cầu PTI thanh toán lãi suất chậm trả tiền bảo hiểm. Xét thấy, việc bổ sung yêu cầu khởi kiện của bà T là không vượt quá phạm vi yêu cầu khởi kiện ban đầu nên căn cứ vào khoản 1 Điều 244 Bộ luật Tố tụng dân sự Hội đồng xét xử chấp nhận.
Căn cứ Điều 29 Luật kinh doanh bảo hiểm năm 2000 (sửa đổi, bổ sung năm 2019) và mục 2 chương V Quy tắc bảo hiểm số 270/QĐ-PTI-BHCN, mục 3 phần III Giấy chứng nhận bảo hiểm số 0000682/GCN/040-KTTT/VTA-PLUS/2022 ngày 19-02-2022 thì Tổng công ty cổ phần bảo hiểm B có nghĩa vụ trả tiền bảo hiểm trong thời hạn chậm nhất là 10 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được bộ hồ sơ đầy đủ và hợp lệ. Theo xác nhận của người đại diện Tổng công ty cổ phần bảo hiểm B thì Tổng công ty cổ phần bảo hiểm B đã nhận được bộ hồ sơ yêu cầu trả tiền bảo hiểm của chị Dương Thị H đối với trường hợp của chị Dương Thị H, không yêu cầu phải bổ sung thêm hồ sơ, tài liệu gì khác. Vì vậy, thời hạn cuối cùng mà Tổng công ty cổ phần bảo hiểm B phải trả tiền bảo hiểm là ngày 31-3- 2022. Do Tổng công ty cổ phần bảo hiểm B không trả tiền bảo hiểm đúng thời hạn nên đã vi phạm nghĩa vụ thanh toán. Căn cứ Điều 357 và Điều 468 Bộ luật Dân sự năm 2015, Tổng công ty cổ phần bảo hiểm B phải trả tiền chậm trả đối với số tiền bảo hiểm với mức lãi suất 10%/năm, kể từ ngày 01-4-2022 cho đến khi thanh toán xong số tiền bảo hiểm của chị Dương Thị H.
Cụ thể số tiền chậm trả tính đến hết ngày xét xử sơ thẩm (10-7-2023) là: 15 tháng 10 ngày:
Lãi chậm trả của 15 tháng là (24.000.000 đồng x 10%/năm/12 tháng) x 15 tháng = 3.000.000 đồng.
Lãi chậm trả của 10 ngày là (24.000.000 đồng x 10%/năm/12 tháng)/30 ngày x 10 ngày = 66.666 đồng. Làm tròn thành 66.600 đồng.
Tổng cộng là 3.066.600 đồng (ba triệu, không trăm, sáu mươi sáu nghìn, sáu trăm đồng).
Kể từ ngày tiếp theo của ngày xét xử sơ thẩm, Tổng công ty cổ phần bảo hiểm B phải tiếp tục trả tiền chậm trả đối với số tiền bảo hiểm phải trả theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân sự năm 2015 cho đến khi thanh toán xong toàn bộ số tiền bảo hiểm.
[3] Hội đồng xét xử phúc thẩm nhận định:
Về tố tụng: Tòa án nhân dân thành phố Nam Định xác định quan hệ pháp luật, tư cách của những người tham gia tố tụng, thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.
Về nội dung: Tòa án nhân dân thành phố Nam Định đã áp dụng quy định của Bộ luật dân sự, Luật kinh doanh bảo hiểm và các văn bản hướng dẫn thi hành để giải quyết đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự.
Tổng công ty cổ phần bảo hiểm B không đồng ý với toàn bộ nội dung bản án sơ thẩm, kháng cáo toàn bộ bản án và sẽ có văn bản trình bày chi tiết lý do kháng cáo và sẽ nộp cho Tòa án cấp phúc thẩm. Tại cấp phúc thẩm, Tổng công ty cổ phần bảo hiểm B không xuất trình được tài liệu chứng cứ mới. Do đó, không có căn cứ chấp nhận kháng cáo. HĐXX quyết định không chấp nhận kháng cáo, giữ nguyên bản án sơ thẩm.
[4] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực thi hành.
[5] Về án phí: Kháng cáo không được chấp nhận nên Tổng công ty cổ phần bảo hiểm B phải nộp án phí dân sự phúc thẩm.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ khoản 1 Điều 308 Bộ luật Tố tụng dân sự; Điều 357, Điều 468 của Bộ luật Dân sự 2015; Điều 13, Điều 14, Điều 15, Điều 16, điểm c khoản 2 Điều 17, Điều 22, Điều 29 của Luật kinh doanh bảo hiểm năm 2000 (sửa đổi, bổ sung năm 2019); khoản 3 Điều 26; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm b khoản 1 Điều 40; khoản 1 Điều 147; điểm c, g khoản 1 Điều 217; Điều 218 của Bộ luật Tố tụng dân sự; khoản 2 Điều 26 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa XIV; điểm a khoản 1 Điều 13 của Nghị quyết số 01/2019/NQ-HĐTP ngày 11-01-2019 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao.
1. Không chấp nhận kháng cáo của Tổng công ty cổ phần bảo hiểm B, giữ nguyên bản án sơ thẩm.
2. Án phí dân sự phúc thẩm: Tổng công ty cổ phần bảo hiểm B phải nộp 300.000 đồng án phí dân sự phúc thẩm; đối trừ với số tiền tạm ứng án phí phúc thẩm đã nộp là 300.000 đồng tại Biên lai thu tiền số 0000265 ngày 24/7/2023 của Chi cục thi hành án dân sự thành phố Nam Định, Tổng công ty cổ phần bảo hiểm B đã nộp đủ án phí dân sự phúc thẩm.
Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực thi hành.
Trong trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực thi hành kể từ ngày tuyên án.
Bản án về tranh chấp hợp đồng bảo hiểm số 57/2023/DS-PT
Số hiệu: | 57/2023/DS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Nam Định |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Ngày ban hành: | 13/12/2023 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về