TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỈNH NAM ĐỊNH
BẢN ÁN 50/2023/DS-PT NGÀY 12/12/2023 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG BẢO HIỂM
Ngày 12 tháng 12 năm 2023, tại trụ sở Toà án nhân dân tỉnh Nam Định mở phiên toà xét xử phúc thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 35/2023/TLPT-DS ngày 16-10-2023 về việc “Tranh chấp hợp đồng bảo hiểm”.
Do bản án dân sự sơ thẩm số 44/2023/DS–ST ngày 06 tháng 7 năm 2023 của Tòa án nhân dân thành phố Nam Định bị kháng cáo.
Theo quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 10/2023/QĐXX-PT ngày 27 tháng 10 năm 2023 giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Chị Hoàng Thị H, sinh năm 1976; nơi thường trú: Thôn Đ, xã T, huyện H, tỉnh T.
Người đại diện theo uỷ quyền của nguyên đơn (chị Hoàng Thị H): Bà Hoàng Thị T, sinh năm 1966; nơi thường trú: Thôn L, xã T, huyện H, tỉnh T;
- Bị đơn: Tổng công ty cổ phần Bảo hiểm B; địa chỉ trụ sở: Số 95 phố T, phường D, quận C, thành phố H.
Người đại diện theo pháp luật: Bà Hoàng Thị Y – Chức vụ: Tổng giám đốc; người đại diện theo uỷ quyền: Ông Hà Minh T– Chức vụ: Phó giám đốc Công ty Bảo hiểm B (Theo Giấy uỷ quyền số 770/GUQ-PTI-PCKSNB ngày 02-11-2022); Ông Phạm Quang Đ và ông Hồ Đình Q (theo văn bản ủy quyền số 1024/GUQ-PTI ngày 01-12-2023);
- Người kháng cáo: Tổng công ty cổ phần Bảo hiểm B là bị đơn trong vụ án. Tại phiên tòa: Bà T, ông Đ có mặt. Ông T, ông Q vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
* Tại đơn khởi kiện ngày 10-11-2022 và quá trình tham gia tố tụng, người đại diện theo ủy quyền nguyên đơn (chị Hoàng Thị H) là Bà Hoàng Thị T trình bày:
Ngày 23-02-2022 chị Hoàng Thị H mua bảo hiểm thông qua hình thức đơn bảo hiểm điện tử với Công ty Bảo hiểm B là đơn vị trực thuộc của Tổng công ty cổ phần Bảo hiểm B. Gói bảo hiểm mua thuộc chương trình “VTA +”, được thực hiện theo Quy tắc bảo hiểm số 270/QĐ-PTI-BHCN của Tổng công ty cổ phần Bảo hiểm B.
Toàn bộ thủ tục đăng ký mua bảo hiểm, nộp phí bảo hiểm, cấp giấy chứng nhận bảo hiểm cho chị Hoàng Thị H đều được thực hiện online trên hệ thống phần mềm của Tổng công ty cổ phần Bảo hiểm B. Việc chị Hành mua bảo hiểm đã được cấp Giấy chứng nhận bảo hiểm số 0001042/GCN/040-KTTT/VTA-PLUS/2022 ngày 23-02-2022 (gọi tắt là Giấy chứng nhận bảo hiểm). Giấy chứng nhận bảo hiểm có các nội dung cụ thể như sau:
Bên mua bảo hiểm và người được bảo hiểm là chị Hoàng Thị H.
Thời hạn bảo hiểm là 12 tháng kể từ ngày 24-02-2022 đến ngày 24-02-2023.
Phí bảo hiểm là 790.000 đồng. Phí bảo hiểm đã được chị Hoàng Thị H đóng toàn bộ một lần vào ngày 23-02-2022.
Quyền lợi bảo hiểm: Người được bảo hiểm được hưởng quỹ trợ cấp nằm viện điều trị dịch bệnh tại các cơ sở y tế khi người được bảo hiểm nhập viện sau 03 ngày kể từ ngày bắt đầu bảo hiểm là 12.000.000 đồng. Đối với người được bảo hiểm đã tiêm chủng phòng ngừa dịch bệnh thì quỹ trợ cấp này tăng gấp đôi, tức là sẽ được hưởng 24.000.000 đồng.
Chị Hoàng Thị H đã được tiêm chủng phòng ngừa bệnh Covid-19 mũi 1 vào ngày 18-10-2021, mũi 2 vào ngày 19-11-2021 tại Trạm y tế xã T, huyện H, tỉnh T. Đến ngày 04-3-2022 thì chị Hành được xác định dương tính SATS-CoV-2 theo Phiếu trả lời kết quả xét nghiệm ngày 04-3-2022 của Công ty TNHH Tuệ Lâm – Phòng khám Đa khoa 153. Cùng ngày 04-3-2022, chị Hành được đưa vào điều trị tại “Cơ sở 2 thu dung, điều trị Covid-19 thuộc Trung tâm Y tế huyện H - Sở Y tế tỉnh T” để điều trị bệnh Covid-19. Đến ngày 13-3-2022 chị Hành được ra viện.
Sau khi sự kiện bảo hiểm xảy ra, chị Hoàng Thị H đã làm thủ tục thông báo việc chị Hành bị mắc bệnh Covid-19 và phải điều trị tại cơ sở y tế cho Tổng công ty cổ phần Bảo hiểm B. Các giấy yêu cầu bảo hiểm, chứng từ điều trị của chị Hành đã được chụp ảnh và cập nhật trên hệ thống phần mềm của Tổng công ty cổ phần Bảo hiểm B ngay trong tháng 3 năm 2022. Ngoài việc khai báo online, chị Hành còn gửi bộ hồ sơ gốc yêu cầu bảo hiểm và chứng từ điều trị cho Tổng công ty cổ phần Bảo hiểm B theo đường bưu chính.
Ngày 10-5-2022, Tổng công ty cổ phần Bảo hiểm B có thông báo giải quyết quỹ hỗ trợ với mức chi hỗ trợ cho chị Hành là 12.000.000 đồng. Chị Hành không đồng ý với mức hỗ trợ nói trên và yêu cầu Tổng công ty cổ phần Bảo hiểm B phải thực hiện trả tiền bảo hiểm là 24.000.000 đồng với lý do theo Giấy chứng nhận bảo hiểm và Phụ lục tại trang 2 thì trường hợp của chị Hành đã thỏa mãn tất cả các điều kiện của hợp đồng bảo hiểm. Cụ thể là chị Hành đã bị mắc bệnh Covid-19 sau 28 ngày kể từ ngày bắt đầu bảo hiểm, đã được tiêm chủng phòng ngừa bệnh Covid-19, đã được điều trị tại cơ sở y tế do cơ quan nhà nước có thẩm quyền thành lập; đồng thời trường hợp của chị Hành không thuộc bất cứ điểm loại trừ nào theo Quy tắc bảo hiểm số 270/QĐ-PTI-BHCN và Giấy chứng nhận bảo hiểm của Tổng công ty cổ phần Bảo hiểm B.
Ngoài ra, theo quy định của khoản 3, mục tóm tắt nội dung bảo hiểm của Giấy chứng nhận bảo hiểm thì Tổng công ty cổ phần Bảo hiểm B phải trả tiền bảo hiểm trong thời hạn 10 ngày làm việc kể từ ngày nhận được bộ hồ sơ đầy đủ và hợp lệ. Tổng công ty cổ phần Bảo hiểm B đã tiếp nhận bộ hồ sơ yêu cầu bồi thường hợp lệ của chị Hành từ ngày 28-3-2022, thời hạn cuối cùng phải trả tiền bảo hiểm là ngày 12-4-2022, ngày bắt đầu vi phạm nghĩa vụ trả tiền là từ ngày 13-4-2022. Vì vậy Tổng công ty cổ phần Bảo hiểm B phải trả tiền chậm trả đối với số tiền bảo hiểm theo quy định tại Điều 357 và Điều 468 Bộ luật Dân sự năm 2015 với mức lãi suất 10%/năm, kể từ ngày 13-4-2022 cho đến khi thanh toán xong số tiền bảo hiểm của chị Hoàng Thị H. Hiện tại, chị Hoàng Thị H yêu cầu giải quyết các vấn đề sau:
Buộc Tổng công ty cổ phần Bảo hiểm B phải thực hiện trả tiền bảo hiểm cho trường hợp của chị Hành Thị Hành là 24.000.000 đồng (hai mươi bốn triệu đồng).
Buộc Tổng công ty cổ phần Bảo hiểm B phải trả tiền chậm trả theo quy định tại Điều 357 và Điều 468 Bộ luật Dân sự năm 2015 với mức lãi suất 10%/năm đối với số tiền bảo hiểm chậm trả kể từ ngày 13-4-2022 cho đến khi thanh toán xong số tiền bảo hiểm cho trường hợp của chị Hoàng Thị H.
* Trong quá trình giải quyết vụ án, và tại phiên tòa người đại diện theo ủy quyền của bị đơn (Tổng công ty cổ phần Bảo hiểm B) trình bày:
Ngày 23-02-2022 chị Hoàng Thị H đã mua bảo hiểm thuộc chương trình “VTA +”, được thực hiện theo Quy tắc bảo hiểm số 270/QĐ-PTI-BHCN của Tổng công ty cổ phần Bảo hiểm B. Thủ tục đăng ký mua bảo hiểm, nộp phí bảo hiểm, cấp giấy chứng nhận bảo hiểm cho chị Hành được thực hiện online trên hệ thống phần mềm của Tổng công ty cổ phần Bảo hiểm B. Chị Hành đã được cấp Giấy chứng nhận bảo hiểm số 0001042/GCN/040-KTTT/VTA-PLUS/2022 ngày 23-02- 2022 (gọi là tắt là: Giấy chứng nhận bảo hiểm). Thời hạn bảo hiểm đối với chị Hành là 12 tháng, tính từ ngày 24-02-2022 đến ngày 24-3-2023. Phí bảo hiểm là 790.000 đồng, đã được chị Hành đóng toàn bộ vào ngày 23-02-2022.
Sau khi chị Hoàng Thị H bị mắc bệnh Covid-19 và được điều trị tại Cơ sở 2 thu dung, điều trị Covid-19 thuộc Trung tâm Y tế huyện H - Sở Y tế tỉnh T, chị Hành đã làm thủ tục thông báo trên hệ thống phần mềm của Tổng công ty cổ phần Bảo hiểm B. Tổng công ty cổ phần Bảo hiểm B cũng đã nhận được bộ hồ sơ gốc yêu cầu trả tiền bảo hiểm của khách hàng Hoàng Thị H vào ngày 28-3-2022 bao gồm giấy yêu cầu bảo hiểm và các chứng từ điều trị của chị Hành. Tổng công ty cổ phần Bảo hiểm B không yêu cầu chị Hành bổ sung thêm hồ sơ, tài liệu gì khác.
Chị Hoàng Thị H mắc bệnh Covid-19 là thuộc sự kiện bảo hiểm quy định trong chương trình bảo hiểm “VTA +”. Tuy nhiên do chị Hành bị mắc bệnh Covid- 19 sau khi Chính phủ thực hiện chủ trương miễn dịch cộng đồng, số lượng người mắc bệnh Covid-19 rất nhiều. Để giải quyết việc điều trị cho người mắc bệnh Covid-19, Bộ Y tế đã ban hành Quyết định số 5525/QĐ-BYT ngày 01-12-2021 và Quyết định 250/QĐ-BYT ngày 28-01-2022 để phân loại nhóm nguy cơ cần điều trị tại cơ sở y tế. Theo hướng dẫn của các văn bản trên thì chị Hành mắc bệnh Covid- 19, nhưng không thuộc nhóm nguy cơ cần điều trị tại cơ sở y tế. Vì vậy trường hợp của chị Hành là không thuộc trường hợp được trả tiền bảo hiểm. Ngày 10-5-2022 Tổng công ty cổ phần Bảo hiểm B đã thông báo đồng ý hỗ trợ số tiền là 12.000.000 đồng (mười hai triệu đồng) nhưng chị Hành không đồng ý.
Tổng công ty cổ phần Bảo hiểm B yêu cầu Tòa án giải quyết tranh chấp bảo hiểm theo quy định của pháp luật. Đồng thời, Tổng công ty cổ phần Bảo hiểm B không chấp nhận yêu cầu của chị Hoàng Thị H về việc trả tiền chậm trả đối với số tiền bảo hiểm vì giữa hai bên xảy ra tranh chấp chi trả tiền bảo hiểm.
* Bản án sơ thẩm số 44/2023/DS – ST ngày 06 tháng 7 năm 2023 của Tòa án nhân dân thành phố Nam Định đã quyết định: Căn cứ Điều 357; Điều 468 của Bộ luật Dân sự 2015; Điều 13; Điều 14; Điều 15; Điều 16; điểm c khoản 2 Điều 17; Điều 22; Điều 29 của Luật kinh doanh bảo hiểm năm 2000 (sửa đổi, bổ sung năm 2019); khoản 3 Điều 26; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm b khoản 1 Điều 40; khoản 1 Điều 147; điểm c, g khoản 1 Điều 217; Điều 218 của Bộ luật Tố tụng dân sự; khoản 2 Điều 26 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa XIV; điểm a khoản 1 Điều 13 Nghị quyết số 01/2019/NQ-HĐTP ngày 11-01-2019 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao.
Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Hoàng Thị H.
Buộc Tổng công ty cổ phần Bảo hiểm B phải trả cho chị Hoàng Thị H số tiền bảo hiểm là 24.000.000 đồng (hai mươi bốn triệu đồng).
Buộc Tổng công ty cổ phần Bảo hiểm B phải trả cho chị Hoàng Thị H số tiền lãi chậm trả đối với số tiền bảo hiểm kể từ ngày 13-4-2022 đến hết ngày xét xử sơ thẩm (ngày 06-7-2023) là 2.953.300 đồng (hai triệu chín trăm năm mươi ba nghìn ba trăm đồng).
Kể từ ngày tiếp theo của ngày xét xử sơ thẩm (là ngày 06-7-2023) cho đến khi thi hành án xong, Tổng công ty cổ phần Bảo hiểm B phải tiếp tục trả tiền lãi đối với số tiền phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật Dân sự năm 2015.
Đình chỉ giải quyết về yêu cầu của chị Hoàng Thị H đề nghị cơ quan có thẩm quyền xử phạt hành chính đối với Tổng công ty cổ phần Bảo hiểm B do chậm trả tiền bồi thường.
Ngoài ra, án sơ thẩm còn tuyên án phí, quyền kháng cáo và biện pháp thi hành án của các đương sự.
* Tại đơn kháng cáo ngày 10-7-2023 của Tổng công ty bảo hiểm Bưu điện kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm, đề nghị Toà án nhân dân tỉnh Nam Định giải quyết lại theo trình tự phúc thẩm đối với bản án của Toà án nhân dân thành phố Nam Định. Kính mong Toà án nhân dân tỉnh Nam Định xét xử phúc thẩm vụ án theo đúng quy định của pháp luật nhằm đảm bảo quyền, lợi ích hợp pháp của tổng công ty bảo hiểm Bưu điện.
* Tại phiên tòa phúc thẩm: Bà Hoàng Thị T là người đại diện uỷ quyền của chị Hoàng Thị H vẫn giữ nguyên quan điểm như đã trình bày tại cấp sơ thẩm, không chấp nhận lý do kháng cáo của Tổng công ty bảo hiểm Bưu điện, đề nghị cấp phúc thẩm giải quyết giữ nguyên như bản án sơ thẩm. Ông Phạm Quang Đ vẫn giữ nguyên yêu cầu kháng cáo. Các đương sự không thoả thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án.
* Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Nam Định tham gia phiên tòa phát biểu ý kiến:
Về tố tụng: Thẩm phán chủ tọa phiên tòa, Hội đồng xét xử và thư ký phiên tòa đã thực hiện đúng các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Trong quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa phúc thẩm, những người tham gia tố tụng chấp hành đúng các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.
Về nội dung kháng cáo: Căn cứ vào tài liệu có trong hồ sơ vụ án thì thấy rằng có đủ cơ sở chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Hoàng Thị H. Buộc Tổng công ty cổ phần Bảo hiểm B phải trả cho chị Hoàng Thị H số tiền bảo hiểm là 24.000.000 đồng và số tiền lãi chậm trả đối với số tiền bảo hiểm với mức lãi suất 10%/năm, kể từ ngày 13-4-2022 đến hết ngày xét xử sơ thẩm ngày 06-7-2023. Kể từ ngày tiếp theo của ngày xét xử sơ thẩm (là ngày 06-7-2023) cho đến khi thi hành án xong, Tổng công ty cổ phần Bảo hiểm B phải tiếp tục trả tiền lãi đối với số tiền phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật Dân sự năm 2015. Vì vậy, kháng cáo của Tổng công ty bảo hiểm Bưu điện là không có căn cứ. Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 308 giữ nguyên bản án sơ thẩm. Về án phí đề nghị giải quyết theo quy định của pháp luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ đã được xem xét tại phiên toà và kết quả tranh tụng tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về tố tụng: Bà Hoàng Thị Y vắng mặt tại phiên toà nhưng đã uỷ quyền cho ông Hà Minh Tấn, ông Hồ Đình Q và Ông Phạm Quang Đ. Chị Hoàng Thị H vắng mặt tại phiên toà nhưng đã uỷ quyền cho Bà Hoàng Thị T nên việc xét xử vắng mặt họ không ảnh hưởng gì đến quyền và lợi ích hợp pháp của họ. Vì vậy, căn cứ khoản 2 Điều 296 Bộ luật tố tụng dân sự, Tòa án tiến hành xét xử vụ án vắng mặt họ.
[2] Xét kháng cáo của Tổng công ty bảo hiểm Bưu điện làm trong thời hạn luật định phù hợp với quy định tại khoản 1 Điều 272; khoản 1 Điều 273; Điều 276 Bộ luật Tố tụng Dân sự nên được HĐXX chấp nhận xem xét giải quyết.
[3] Tranh chấp được giải quyết trong vụ án: Theo đơn khởi kiện được Tòa án nhân dân thành phố Nam Định thụ lý ngày 23-11-2022 thì nguyên đơn là chị Hoàng Thị H yêu cầu Tòa án giải quyết tranh chấp về việc trả tiền bảo hiểm với Tổng công ty cổ phần Bảo hiểm B. Trong quá trình giải quyết vụ án, bị đơn không có yêu cầu phản tố. Do vậy tranh chấp trong vụ án được xác định là tranh chấp dân sự về hợp đồng bảo hiểm như Toà án cấp sơ thẩm đã xác định là đúng.
[4] Thẩm quyền giải quyết của Tòa án: Căn cứ Giấy chứng nhận bảo hiểm số 0001042/GCN/040-KTTT/VTA-PLUS/2022 ngày 23-02-2022 thì chị Hoàng Thị H giao kết hợp đồng bảo hiểm với Công ty Bảo hiểm B, thuộc Tổng công ty cổ phần Bảo hiểm B. Theo đơn khởi kiện, chị Hành đã lựa chọn Tòa án nhân dân thành phố Nam Định, tỉnh Nam Định là Tòa án nơi có trụ sở chi nhánh giao kết hợp đồng bảo hiểm để giải quyết tranh chấp. Vì vậy, căn cứ khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm b khoản 1 Điều 40 Bộ luật Tố tụng dân sự thì Tòa án nhân dân thành phố Nam Định, tỉnh Nam Định thụ lý, giải quyết vụ án là đúng thẩm quyền.
[5] Xét về nội dung kháng cáo của Tổng công ty bảo hiểm Bưu điện đề nghị Toà án cấp phúc thẩm giải quyết đúng quy định của pháp luật nhằm đảm bảo quyền, lợi ích hợp pháp của tổng công ty bảo hiểm Bưu điện thấy rằng: Về tranh chấp bảo hiểm: Ngày 23-02-2022 chị Hoàng Thị H mua bảo hiểm thông qua hình thức đơn bảo hiểm điện tử với Công ty Bảo hiểm B, là đơn vị trực thuộc của Tổng công ty cổ phần Bảo hiểm B. Sau khi chị Hành đã đóng đầy đủ phí bảo hiểm, Công ty Bảo hiểm B đã cấp Giấy chứng nhận bảo hiểm số 0001042/GCN/040- KTTT/VTA-PLUS/2022 ngày 23-02-2022. Giấy chứng nhận bảo hiểm và Phụ lục kèm theo có ghi các nội dung cụ thể của hợp đồng bảo hiểm, bao gồm: Bên mua bảo hiểm và người được bảo hiểm là chị Hoàng Thị H; Thời hạn bảo hiểm là 12 tháng kể từ ngày 24-02-2022 đến ngày 24-02-2023; Phí bảo hiểm là 790.000 đồng. Phí bảo hiểm đã được chị Hoàng Thị H đóng toàn bộ một lần vào ngày 23-02- 2022; Quyền lợi bảo hiểm: Người được bảo hiểm được hưởng quỹ trợ cấp nằm viện điều trị dịch bệnh tại các cơ sở y tế khi người được bảo hiểm nhập viện sau 03 ngày kể từ ngày bắt đầu bảo hiểm là 12.000.000 đồng. Đối với người được bảo hiểm đã tiêm chủng phòng ngừa dịch bệnh thì quỹ trợ cấp này tăng gấp đôi, tức là sẽ được hưởng 24.000.000 đồng. Ngoài ra giấy chứng nhận bảo hiểm và phụ lục kèm theo còn có các nội dung về điều khoản loại trừ trách nhiệm bảo hiểm, thời hạn trả tiền bảo hiểm... Căn cứ Điều 13, Điều 14, Điều 15, Điều 22 Luật kinh doanh bảo hiểm năm 2000 (sửa đổi, bổ sung năm 2019) thì hợp đồng bảo hiểm giữa chị Hành và Tổng công ty cổ phần Bảo hiểm B là hợp pháp và có hiệu lực thực hiện; trách nhiệm bảo hiểm của Tổng công ty cổ phần Bảo hiểm B đối với chị Hoàng Thị H phát sinh từ ngày 24-02-2022 đến ngày 24-02-2023.
[6] Về sự kiện bảo hiểm: Căn cứ vào Phiếu trả lời kết quả xét nghiệm ngày 04-3-2022 của Công ty TNHH Tuệ Lâm – Phòng khám Đa khoa 153 thì chị Hoàng Thị H bị mắc bệnh Covid-19. Như vậy, chị Hành đã bị mắc bệnh Covid-19 sau 28 ngày kể từ ngày được bắt đầu bảo hiểm là ngày 24-02-2022. Ngay trong ngày 04- 3-2022, chị Hành đã được đưa vào Cơ sở 2 thu dung, điều trị Covid-19 thuộc Trung tâm Y tế huyện H - Sở Y tế tỉnh T; đây là cơ sở y tế hợp pháp được Sở Y tế tỉnh T thành lập để điều trị cho các bệnh nhân mắc Covid-19. Các tình tiết trên là cơ sở để xác định sự kiện bảo hiểm được nêu trong Giấy chứng nhận bảo hiểm số 0001042/GCN/040-KTTT/VTA-PLUS/2022 ngày 23-02-2022 và phụ lục kèm theo đã xảy ra trong thời hạn bảo hiểm của chị Hoàng Thị H.
[7] Về nghĩa vụ trả tiền bảo hiểm: Căn cứ nhận định tại mục 2.2 về việc chị Hoàng Thị H bị mắc bệnh Covid-19 trong thời hạn bảo hiểm, được điều trị tại cơ sở y tế hợp pháp là sự kiện bảo hiểm được nêu trong Giấy chứng nhận bảo hiểm số 0001042/GCN/040-KTTT/VTA-PLUS/2022 ngày 23-02-2022 và phụ lục kèm theo; đồng thời việc chị Hành bị mắc bệnh Covid-19 không thuộc bất cứ điểm loại trừ nào được ghi trong Quy tắc bảo hiểm số 270/QĐ-PTI-BHCN và Giấy chứng nhận bảo hiểm số 0001042/GCN/040-KTTT/VTA-PLUS/2022 ngày 23-02-2022. Vì vậy, căn cứ Điều 16 và điểm c khoản 2 Điều 17 Luật kinh doanh bảo hiểm năm 2000 (sửa đổi, bổ sung năm 2019) thì Tổng công ty cổ phần Bảo hiểm B có nghĩa vụ trả tiền bảo hiểm cho người thụ hưởng là chị Hoàng Thị H theo quy định của hợp đồng bảo hiểm. Do chị Hoàng Thị H bị mắc bệnh Covid-19 sau khi đã được tiêm chủng phòng ngừa dịch bệnh Covid-19, vì vậy căn cứ quy định tại phụ lục của Giấy chứng nhận bảo hiểm số 0001042/GCN/040-KTTT/VTA-PLUS/2022 ngày 23-02-2022 thì số tiền bảo hiểm cho trường hợp của chị Hoàng Thị H là 24.000.000 đồng.
[8] Đối với quan điểm của Tổng công ty cổ phần Bảo hiểm B cho rằng chị Hoàng Thị H mắc bệnh Covid-19, nhưng không thuộc nhóm nguy cơ cần điều trị tại cơ sở y tế theo hướng dẫn tại Quyết định số 5525/QĐ-BYT ngày 01-12-2021 và Quyết định 250/QĐ-BYT ngày 28-01-2022 của Bộ Y tế, do đó trường hợp của chị Hành là không thuộc trường hợp được trả tiền bảo hiểm. Hội đồng xét xử thấy rằng: Căn cứ mục 3 Quyết định số 5525/QĐ-BYT ngày 01-12-2021 của Bộ Y tế thì chị Hành thuộc loại nguy cơ trung bình, định hướng điều trị tại “bệnh viện hoặc cơ sở thu dung điều trị Covid-19, trong trường hợp quá tải thì có thể xem xét điều trị tại cộng đồng”; căn cứ ghi chú tại bảng 4, mục 6.1 Quyết định 250/QĐ-BYT ngày 28-01-2022 của Bộ Y tế về nguyên tắc điều trị thì “người bệnh nhiễm COVID-19 không triệu chứng hoặc mức độ nhẹ có thể điều trị tại nhà hoặc các cơ sở thu dung điều trị COVID-19 tuỳ theo tình hình dịch tại từng địa phương”. Trường hợp của chị Hành thực tế đã được cơ sở y tế có thẩm quyền tiếp nhận và điều trị bệnh Covid-19, như vậy là thuộc trường hợp cần thiết phải điều trị tại cơ sở y tế. Quan điểm của Tổng công ty cổ phần Bảo hiểm B cho rằng chị Hoàng Thị H mắc bệnh Covid-19, nhưng không thuộc nhóm nguy cơ cần điều trị tại cơ sở y tế nên không được trả tiền bảo hiểm là không có cơ sở chấp nhận.
[9] Về nghĩa vụ chậm trả: Căn cứ Điều 29 Luật kinh doanh bảo hiểm năm 2000 (sửa đổi, bổ sung năm 2019) và mục 2 chương V Quy tắc bảo hiểm số 270/QĐ-PTI-BHCN, mục 3 phần III Giấy chứng nhận bảo hiểm số 0001042/GCN/040-KTTT/VTA-PLUS/2022 ngày 23-02-2022 thì Tổng công ty cổ phần Bảo hiểm B có nghĩa vụ trả tiền bảo hiểm trong thời hạn chậm nhất là 10 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được bộ hồ sơ đầy đủ và hợp lệ. Theo xác nhận của người đại diện Tổng công ty cổ phần Bảo hiểm B thì Tổng công ty cổ phần Bảo hiểm B đã nhận được bộ hồ sơ yêu cầu trả tiền bảo hiểm của chị Hoàng Thị H đã được phê duyệt ngày 28-3-2022, không yêu cầu phải bổ sung thêm hồ sơ, tài liệu gì khác và đã Thông báo giải quyết quỹ hỗ trợ ngày 10-5-2022 cho chị Hành. Vì vậy, thời hạn cuối cùng mà Tổng công ty cổ phần Bảo hiểm B phải trả tiền bảo hiểm là ngày 12-4-2022. Do Tổng công ty cổ phần Bảo hiểm B không trả tiền bảo hiểm đúng thời hạn nên đã vi phạm nghĩa vụ thanh toán. Căn cứ Điều 357 và Điều 468 Bộ luật Dân sự năm 2015, Tổng công ty cổ phần Bảo hiểm B phải trả tiền chậm trả đối với số tiền bảo hiểm với mức lãi suất 10%/năm, kể từ ngày 13-4-2022 cho đến khi thanh toán xong số tiền bảo hiểm của chị Hoàng Thị H. Cụ thể số tiền lãi chậm trả tính đến hết ngày xét xử sơ thẩm (ngày 06-7-2023) là: 14 tháng 23 ngày: Lãi chậm trả của 14 tháng là (24.000.000 đồng x 10%/năm/12 tháng) x 14 tháng = 2.800.000 đồng. Lãi chậm trả của 23 ngày là (24.000.000 đồng x 10%/năm/12 tháng)/30 ngày x 23 ngày = 153.300 đồng. Tổng số tiền là: 2.953.300 đồng. Kể từ ngày tiếp theo của ngày xét xử sơ thẩm (là ngày 06-7-2023) cho đến khi thi hành án xong, Tổng công ty cổ phần Bảo hiểm B phải tiếp tục trả tiền lãi đối với số tiền phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật Dân sự năm 2015.
[10] Về việc rút yêu cầu khởi kiện: Tại phiên tòa, người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn là Bà Hoàng Thị T rút yêu cầu khởi kiện về việc yêu cầu Tổng công ty cổ phần Bảo hiểm B trả tiền phát sinh đi lại về Tòa án làm việc và rút yêu cầu đề nghị cơ quan có thẩm quyền xử phạt hành chính đối với Tổng công ty cổ phần Bảo hiểm B do chậm trả tiền bồi thường. Xét thấy việc rút yêu cầu khởi kiện là hoàn toàn tự nguyện nên Hội đồng xét xử sẽ quyết định đình chỉ giải quyết đối với các yêu cầu khởi kiện này.
[11] Qua những phân tích nêu trên đã cho thấy những kết luận trong bản án sơ thẩm là hoàn toàn phù hợp với những quy định của pháp luật. Tòa án cấp sơ thẩm đã áp dụng đúng các quy định của pháp luật để giải quyết vụ án. Trong quá trình chuẩn bị xét xử và tại phiên toà phúc thẩm Ông Phạm Quang Đ là người đại diện theo uỷ quyền của Tổng công ty cổ phần Bảo hiểm B cũng không đưa ra được các chứng cứ và lý lẽ để chứng minh cho yêu cầu kháng cáo của mình. Lý do kháng cáo của Tổng công ty cổ phần Bảo hiểm B là không có căn cứ. Vì vậy, yêu cầu kháng cáo của Tổng công ty cổ phần Bảo hiểm B không được chấp nhận cần giữ nguyên quyết định của bản án sơ thẩm.
[12] Án phí dân sự phúc thẩm: Do kháng cáo của Tổng công ty cổ phần Bảo hiểm B không được chấp nhận nên Tổng công ty cổ phần Bảo hiểm B phải nộp 300.000 (ba trăm nghìn) đồng tiền án phí dân sự phúc thẩm nhưng được đối trừ vào số tiền 300.000 đồng Tổng công ty cổ phần Bảo hiểm B đã nộp tạm ứng án phí dân sự phúc thẩm tại Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Nam Định theo biên lai số 0000243 ngày 17-7-2023, Tổng công ty cổ phần Bảo hiểm B đã thi hành xong án phí dân sự phúc thẩm.
[13] Những quyết định khác của bản án sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị Hội đồng xét xử không giải quyết, có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào khoản 1 Điều 308 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015. Không chấp nhận kháng cáo của Tổng công ty cổ phần Bảo hiểm B. Giữ nguyên án sơ thẩm.
Căn cứ khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm b khoản 1 Điều 40; Điều 147; Điều 148; điểm c, g khoản 1 Điều 217; Điều 218; khoản 2 Điều 296 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; Điều 357; Điều 468 của Bộ luật Dân sự 2015; Điều 13; Điều 14; Điều 15; Điều 16; điểm c khoản 2 Điều 17; Điều 22; Điều 29 của Luật kinh doanh bảo hiểm năm 2000 (sửa đổi, bổ sung năm 2019); điểm a khoản 1 Điều 13 Nghị quyết số 01/2019/NQ-HĐTP ngày 11-01-2019 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao; khoản 2 Điều 26; Điều 29 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa XIV quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Toà án:
1. Giữ nguyên Quyết định bản án sơ thẩm số 44/2023/DS-ST ngày 06-7-2023 của Tòa án nhân dân thành phố Nam Định, tỉnh Nam Định.
2. Án phí dân sự phúc thẩm: Buộc Tổng công ty cổ phần Bảo hiểm B phải nộp 300.000 đồng nhưng được đối trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 300.000 đồng tại biên lai thu tiền tạm ứng án phí, lệ phí số 0000243 ngày 17-7- 2023 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Nam Định, tỉnh Nam Định. Tổng công ty cổ phần Bảo hiểm B đã nộp đủ án phí dân sự phúc thẩm.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự nguyên đơn, người phải thi hành án dân sự bị đơn có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Án phúc thẩm có hiệu lực thi hành ngay sau khi tuyên án.
Bản án về tranh chấp hợp đồng bảo hiểm số 50/2023/DS-PT
Số hiệu: | 50/2023/DS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Nam Định |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Ngày ban hành: | 12/12/2023 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về