Bản án về tranh chấp hợp đồng bảo hiểm số 49/2023/DS-PT

TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỈNH NAM ĐỊNH

BẢN ÁN 49/2023/DS-PT NGÀY 12/12/2023 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG BẢO HIỂM

Ngày 12 tháng 12 năm 2023 tại trụ sở Toà án nhân dân tỉnh N xét xử phúc thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 58/2023/TLPT-DS ngày 16 tháng 10 năm 2023.

Do bản án dân sự số 68/2023/DS-ST ngày 18 tháng 7 năm 2023 của Toà án nhân dân thành phố N, tỉnh N bị kháng cáo.

Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 26/2023/QĐ-PT ngày 25-10-2023 và Quyết định hoãn phiên tòa số 177/2023/QĐ-PT ngày 06-11-2023 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Anh Trần Xuân L, sinh năm 1988; nơi đăng ký thường trú: Thôn L, xã T, huyện H, tỉnh Tuyên Quang.

Người đại diện theo ủy quyền: Bà Hoàng Thị T, sinh năm 1966; nơi đăng ký thường trú: Thôn L, xã T, huyện H, tỉnh Tuyên Quang (theo Giấy ủy quyền ngày 13-12-2022).

- Bị đơn: Tổng công ty cổ phần B (gọi tắt là PTI). Địa chỉ trụ sở: Số 95 đường T, phường D, quận C, thành phố Hà Nội.

Người đại diện theo pháp luật: Bà Hoàng Thị Y - chức vụ: Tổng giám đốc Tổng công ty cổ phần B. (Theo Nghị quyết về việc bổ nhiệm Tổng giám đốc của Tổng Công ty CP B số 68/2023/NQ- PTI-HĐQT ngày 19/10/2023)

Người đại diện theo ủy quyền: Anh Phạm Quang Đ, sinh năm 1994; căn cước công dân số: 00109400xxxx; nơi cư trú: Phòng 313 tập thể G2 T, phường T, quận B, thành phố Hà Nội và ông Hồ Đình Quân. CCCD số 040095000161 (theo Giấy ủy quyền số 1024/GUQ-PTI ngày 01/12/2023).

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1. Bà Đỗ Thị S, sinh năm 1990; nơi đăng ký thường trú: Thôn L, xã T, huyện H, tỉnh Tuyên Quang.

Người đại diện theo ủy quyền: Bà Hoàng Thị T, sinh năm 1966; nơi đăng ký thường trú: Thôn L, xã T, huyện H, tỉnh Tuyên Quang (theo Giấy ủy quyền ngày 15-3-2023).

2. Cháu Trần Ngọc A, sinh ngày 11-7-2020; nơi đăng ký thường trú: Thôn L, xã T, huyện H, tỉnh Tuyên Quang.

Người đại diện theo pháp luật:

2.1. Ông Trần Xuân L, sinh năm 1988; nơi đăng ký thường trú: Thôn L, xã T, huyện H, tỉnh Tuyên Quang.

2.2. Bà Đỗ Thị S, sinh năm 1990; nơi đăng ký thường trú: Thôn L, xã T, huyện H, tỉnh Tuyên Quang;.

Tại phiên tòa phúc thẩm: Có mặt bà Hoàng Thị T và anh Phạm Quang Đ; những đương sự khác vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

1. Tại đơn khởi kiện nộp vào ngày 19-01-2023 và trong quá trình tham gia tố tụng, người đại diện theo ủy quyền nguyên đơn (ông Trần Xuân L), đồng thời là người đại diện theo ủy quyền của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan (bà Đỗ Thị S) là bà Hoàng Thị T trình bày:

Ông Trần Xuân L và bà Đỗ Thị S là vợ chồng, có con gái tên là Trần Ngọc A, sinh ngày 11-7-2020. Ngày 23-02-2022 ông Trần Xuân L mua bảo hiểm cho cháu Trần Ngọc A thông qua hình thức đơn bảo hiểm điện tử với Công ty Bảo hiểm Bưu điện N là đơn vị trực thuộc của Tổng công ty cổ phần B. Gói bảo hiểm mua cho cháu Trần Ngọc A thuộc chương trình “PTI VỮNG TÂM AN +”, được thực hiện theo Quy tắc bảo hiểm số 270/QĐ-PTI-BHCN của Tổng công ty cổ phần B.

Toàn bộ thủ tục đăng ký mua bảo hiểm, nộp phí bảo hiểm, cấp giấy chứng nhận bảo hiểm cho cháu Trần Ngọc A đều được thực hiện online trên hệ thống phần mềm của Tổng công ty cổ phần B. Việc ông Trần Xuân L mua bảo hiểm cho cháu Trần Ngọc A đã được cấp Giấy chứng nhận bảo hiểm số 000965/GCN/040-KTTT/VTA-PLUS/2022 ngày 23-02-2022. Giấy chứng nhận bảo hiểm có các nội dung cụ thể như sau:

- Người mua bảo hiểm là ông Trần Xuân L; người được bảo hiểm là cháu Trần Ngọc A.

- Thời hạn bảo hiểm đối với cháu Trần Ngọc A là 12 tháng, tính từ ngày 24-02-2022 đến ngày 24-02-2023.

- Phí bảo hiểm là 790.000 đồng. Phí bảo hiểm đã được ông Trần Xuân L đóng toàn bộ một lần vào ngày 23-02-2022.

- Quyền lợi bảo hiểm: Người được bảo hiểm được hưởng quỹ trợ cấp nằm viện điều trị dịch bệnh tại các cơ sở y tế khi người được bảo hiểm nhập viện sau 03 ngày kể từ ngày bắt đầu bảo hiểm là 12.000.000 đồng. Đối với người được bảo hiểm đã tiêm chủng phòng ngừa dịch bệnh thì quỹ trợ cấp này tăng gấp đôi, tức là sẽ được hưởng 24.000.000 đồng.

Cháu Trần Ngọc A chưa được tiêm chủng phòng ngừa bệnh Covid-19. Đến ngày 01-3-2022 thì cháu Trần Ngọc A được xác định bị mắc bệnh Covid-19 theo Phiếu xét nghiệm PCR của Công ty TNHH Tuệ Lâm - Phòng khám đa khoa 153. Cùng ngày 01-3-2022, cháu Trần Ngọc A được đưa vào điều trị tại “Cơ sở thu dung điều trị Covid-19 thuộc Trung tâm Y tế huyện Hàm Yên - Sở Y tế tỉnh Tuyên Quang” để điều trị bệnh Covid-19. Đến ngày 08-3-2022 cháu Trần Ngọc A được ra viện.

Sau khi sự kiện bảo hiểm xảy ra, ông Trần Xuân L đã làm thủ tục thông báo việc cháu Trần Ngọc A bị mắc bệnh Covid-19 và phải điều trị tại cơ sở y tế cho Tổng công ty cổ phần B. Các giấy yêu cầu bảo hiểm, chứng từ điều trị của cháu Trần Ngọc A đã được chụp ảnh và cập nhật trên hệ thống phần mềm của Tổng công ty cổ phần B ngay trong tháng 3/2022. Ngoài việc khai báo online, ông Trần Xuân L còn gửi bộ hồ sơ gốc yêu cầu bảo hiểm và chứng từ điều trị cho Tổng công ty cổ phần B theo đường bưu chính.

Ngày 25-5-2022, Tổng công ty cổ phần B có thông báo giải quyết quỹ hỗ trợ với mức chi hỗ trợ cho cháu Trần Ngọc A là 3.600.000 đồng. Ông Trần Xuân L không đồng ý với mức hỗ trợ nói trên và yêu cầu Tổng công ty cổ phần B phải thực hiện trả tiền bảo hiểm cho cháu Trần Ngọc A là 12.000.000 đồng với lý do theo Giấy chứng nhận bảo hiểm số 000965/GCN/040-KTTT/VTA- PLUS/2022 ngày 23-02-2022 và Phụ lục tại trang 2 thì trường hợp của cháu Trần Ngọc A đã thỏa mãn tất cả các điều kiện của hợp đồng bảo hiểm. Cụ thể là cháu Trần Ngọc A đã bị mắc bệnh Covid-19 sau hơn 03 ngày kể từ ngày bắt đầu bảo hiểm, đã được điều trị tại cơ sở y tế do cơ quan nhà nước có thẩm quyền thành lập; đồng thời trường hợp của cháu Trần Ngọc A không thuộc bất cứ điểm loại trừ nào theo Quy tắc bảo hiểm số 270/QĐ-PTI-BHCN và Giấy chứng nhận bảo hiểm số 000965/GCN/040-KTTT/VTA-PLUS/2022 ngày 23-02-2022 của Tổng công ty cổ phần B.

Ngoài ra, theo quy định của khoản 3, mục tóm tắt nội dung bảo hiểm của Giấy chứng nhận bảo hiểm số 000965/GCN/040-KTTT/VTA-PLUS/2022 ngày 23-02-2022 thì Tổng công ty cổ phần B phải trả tiền bảo hiểm trong thời hạn 10 ngày làm việc kể từ ngày nhận được bộ hồ sơ đầy đủ và hợp lệ. Tổng công ty cổ phần B đã tiếp nhận bộ hồ sơ yêu cầu bồi thường hợp lệ của cháu Trần Ngọc A từ ngày 31-3-2022, thời hạn cuối cùng phải trả tiền bảo hiểm là ngày 14-4-2022, ngày bắt đầu vi phạm nghĩa vụ trả tiền là từ ngày 15-4-2022. Vì vậy Tổng công ty cổ phần B phải trả tiền chậm trả đối với số tiền bảo hiểm theo quy định tại Điều 357 và Điều 468 Bộ luật Dân sự năm 2015 với mức lãi suất 10%/năm, kể từ ngày 15-4-2022 cho đến khi thanh toán xong số tiền bảo hiểm của cháu Trần Ngọc A.

Hiện tại, ông Trần Xuân L yêu cầu Tòa án giải quyết các vấn đề sau:

- Buộc Tổng công ty cổ phần B phải thực hiện trả tiền bảo hiểm cho trường hợp của cháu Trần Ngọc A là 12.000.000 đồng (mười hai triệu đồng).

- Buộc Tổng công ty cổ phần B phải trả tiền chậm trả theo quy định tại Điều 357 và Điều 468 Bộ luật Dân sự năm 2015 với mức lãi suất 10%/năm đối với số tiền bảo hiểm chậm trả kể từ ngày 15-4-2022 cho đến khi thanh toán xong số tiền bảo hiểm cho trường hợp của cháu Trần Ngọc A.

2. Trong quá trình giải quyết vụ án, người đại diện theo ủy quyền của bị đơn (Tổng công ty cổ phần B) là ông Hà Minh Tấn trình bày:

Ngày 23-02-2022 ông Trần Xuân L đã mua bảo hiểm cho cháu Trần Ngọc A thuộc chương trình “PTI VỮNG TÂM AN +”, được thực hiện theo Quy tắc bảo hiểm số 270/QĐ-PTI-BHCN của Tổng công ty cổ phần B. Thủ tục đăng ký mua bảo hiểm, nộp phí bảo hiểm, cấp giấy chứng nhận bảo hiểm cho cháu Trần Ngọc A được thực hiện online trên hệ thống phần mềm của Tổng công ty cổ phần B. Cháu Trần Ngọc A đã được cấp Giấy chứng nhận bảo hiểm số 000965/GCN/040-KTTT/VTA-PLUS/2022 ngày 23-02-2022. Thời hạn bảo hiểm đối với cháu Trần Ngọc A là 12 tháng, tính từ ngày 24-02-2022 đến ngày 24-02-2023. Phí bảo hiểm là 790.000 đồng, đã được ông Trần Xuân L đóng toàn bộ vào ngày 23-02-2022.

Sau khi cháu Trần Ngọc A bị mắc bệnh Covid-19 và được điều trị tại Cơ sở thu dung điều trị Covid-19 thuộc Trung tâm Y tế huyện Hàm Yên - Sở Y tế tỉnh Tuyên Quang, ông Trần Xuân L đã làm thủ tục thông báo trên hệ thống phần mềm của Tổng công ty cổ phần B. Tổng công ty cổ phần B cũng đã nhận được bộ hồ sơ gốc yêu cầu trả tiền bảo hiểm của khách hàng Trần Xuân L, bao gồm giấy yêu cầu bảo hiểm và các chứng từ điều trị của cháu Trần Ngọc A từ ngày 31-3-2022. Tổng công ty cổ phần B không yêu cầu ông Trần Xuân L bổ sung thêm hồ sơ, tài liệu gì khác.

Cháu Trần Ngọc A mắc bệnh Covid-19 là thuộc sự kiện bảo hiểm quy định trong chương trình bảo hiểm “PTI VỮNG TÂM AN +”. Tuy nhiên do cháu Trần Ngọc A bị mắc bệnh Covid-19 sau khi Chính phủ thực hiện chủ trương miễn dịch cộng đồng, số lượng người mắc bệnh Covid-19 rất nhiều. Để giải quyết việc điều trị cho người mắc bệnh Covid-19, Bộ Y tế đã ban hành Quyết định số 5525/QĐ-BYT ngày 01-12-2021 và Quyết định 250/QĐ-BYT ngày 28-01-2022 để phân loại nhóm nguy cơ cần điều trị tại cơ sở y tế. Theo hướng dẫn của các văn bản trên thì cháu Trần Ngọc A mắc bệnh Covid-19, nhưng không thuộc nhóm nguy cơ cần điều trị tại cơ sở y tế. Vì vậy trường hợp của cháu Trần Ngọc A là không thuộc trường hợp được trả tiền bảo hiểm. Tổng công ty cổ phần B đã thông báo đồng ý hỗ trợ cho cháu Trần Ngọc A số tiền là 3.600.000 đồng (ba triệu sáu trăm nghìn đồng) nhưng ông Trần Xuân L không đồng ý.

Hiện tại Tổng công ty cổ phần B yêu cầu Tòa án giải quyết tranh chấp bảo hiểm theo quy định của pháp luật. Đồng thời, Tổng công ty cổ phần B không chấp nhận yêu cầu của ông Trần Xuân L về việc trả tiền chậm trả đối với số tiền bảo hiểm vì giữa hai bên xảy ra tranh chấp chi trả tiền bảo hiểm.

Tại bản án số 68/2023/DS-ST ngày 18-7-2023 của Toà án nhân dân thành phố N, tỉnh N đã quyết định.

- Căn cứ Điều 357; Điều 468 Bộ luật Dân sự 2015;

- Căn cứ Điều 13; Điều 14; Điều 15; Điều 16; điểm c khoản 2 Điều 17; Điều 22; Điều 29 Luật kinh doanh bảo hiểm năm 2000 (sửa đổi, bổ sung năm 2019);

- Căn cứ khoản 3 Điều 26; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm b khoản 1 Điều 40; khoản 1 Điều 147; điểm c,g khoản 1 Điều 217; Điều 218 Bộ luật Tố tụng dân sự;

- Căn cứ khoản 2 Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30- 12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa XIV;

- Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 13 Nghị quyết số 01/2019/NQ-HĐTP ngày 11-01-2019 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao.

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Trần Xuân L.

1.1. Buộc Tổng công ty cổ phần B phải trả cho ông Trần Xuân L và bà Đỗ Thị S số tiền bảo hiểm đối với cháu Trần Ngọc A là 12.000.000 đồng (mười hai triệu đồng).

1.2. Buộc Tổng công ty cổ phần B phải trả cho ông Trần Xuân L và bà Đỗ Thị S số tiền chậm trả đối với số tiền bảo hiểm kể từ ngày 15-4-2022 đến hết ngày xét xử sơ thẩm 18-7-2023 là 1.510.000 đồng (một triệu năm trăm mười nghìn đồng).

Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn tuyên án phí, quyền kháng cáo của các đương sự và lãi suất chậm trả do chậm thi hành bản án.

Ngày 30-6-2023 người đại diện theo pháp luật của Tổng công ty cổ phần B không đồng ý với quyết định của bản án và kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm.

Tại phiên tòa phúc thẩm, người đại diện theo ủy quyền của Tổng công ty cổ phần B giữ nguyên nội dung kháng cáo. Đề nghị cấp phúc thẩm căn cứ Quyết định số 5525/QĐ-BYT ngày 01-12-2021 và Quyết định 250/QĐ-BYT ngày 28- 01-2022 do Bộ Y tế đã ban hành để giải quyết việc điều trị cho người mắc bệnh Covid-19, để phân loại nhóm nguy cơ cần điều trị tại cơ sở y tế. Căn cứ vào hồ sơ của khách hàng thì không điều trị theo phác đồ của Bộ y tế hướng dẫn chuẩn đoán và điều trị Covid-19 nên không thỏa mãn điều kiện của quỹ hỗ trợ “Nằm viện điều trị” dịch bệnh. Do vậy không chấp nhận quyết định bản án sơ thẩm về các khoản tiền mà Tổng công ty cổ phần B phải trả bảo hiểm và lãi suất. Đề nghị HĐXX cấp phúc thẩm xem xét lại toàn bộ quyết định của bản án sơ thẩm Người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện và đề nghị HĐXX giữ nguyên bản án sơ thẩm.

Kiểm sát viên - Viện kiểm sát tỉnh N phát biểu ý kiến: Về tố tụng, quá trình giải quyết vụ án tại cấp phúc thẩm, Thẩm phán và Hội đồng xét xử đã tuân theo các quy định Bộ luật tố tụng dân sự. Các đương sự chấp hành đúng các quy định pháp luật tố tụng dân sự, quyền lợi của các đương sự được bảo đảm.

Về đường lối giải quyết vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm Tòa án nhân dân tỉnh N xử: Giữ nguyên bản án sơ thẩm số 68/2023/DS-ST ngày 18-7-2023 của Tòa án nhân dân thành phố N.

Án phí phúc thẩm: Đương sự phải chịu theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được xem xét tại phiên toà căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà, Hội đồng xét xử xét kháng cáo của các đương sự:

[1] Đơn kháng cáo của người đại diện theo ủy quyền của Tổng công ty cổ phần B làm trong thời hạn luật định nên được xem xét theo trình tự phúc thẩm.

[2] Về trình tự thủ tục tố tụng:

2.1. Về người tham gia tố tụng: Sau khi đưa vụ án ra xét xử Tổng công ty cổ phần B thay đổi người đại diện theo pháp luật từ ông Nguyễn Kim Lân sang bà Hoàng Thị Y, sau đó bà Yến ủy quyền cho anh Hồ Đình Quân và anh Phạm Quang Đ tham gia tố tụng tại phiên tòa, xét thấy thủ tục tố tụng của Tổng công ty cổ phần B là đảm bảo quy định của pháp luật nên được Tòa án chấp nhận.

2.2. Về tranh chấp được giải quyết trong vụ án: Theo đơn khởi kiện được Tòa án thụ lý ngày 19-01-2022 thì nguyên đơn là ông Trần Xuân L yêu cầu Tòa án giải quyết tranh chấp về việc trả tiền bảo hiểm với Tổng công ty cổ phần B. Trong quá trình giải quyết vụ án, bị đơn không có yêu cầu phản tố, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không có yêu cầu độc lập nên Tòa án cấp sơ thẩm xác định tranh chấp trong vụ án này là tranh chấp về hợp đồng bảo hiểm là có căn cứ, đúng với quy định của pháp luật.

2.3. Về thẩm quyền giải quyết: Căn cứ Giấy chứng nhận bảo hiểm số 000965/GCN/040-KTTT/VTA-PLUS/2022 thì ông Trần Xuân L giao kết hợp đồng bảo hiểm với Công ty Bảo hiểm Bưu điện N, thuộc Tổng công ty cổ phần B. Theo đơn khởi kiện, ông Trần Xuân L đã lựa chọn Tòa án nhân dân thành phố N, tỉnh N là Tòa án nơi có trụ sở chi nhánh giao kết hợp đồng bảo hiểm để giải quyết tranh chấp Vì vậy căn cứ khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm b khoản 1 Điều 40 Bộ luật Tố tụng dân sự thì Tòa án nhân dân thành phố N, tỉnh N thụ lý, giải quyết vụ án là đúng thẩm quyền.

[3] Xét yêu cầu kháng cáo của Tổng công ty cổ phần B:

3.1. Đối với yêu cầu trả tiền bảo hiểm: Xét yêu cầu của anh Trần Xuân L buộc Tổng công ty cổ phần B phải thanh toán số tiền bảo hiểm 12.000.000 đồng.

3.1.1. Về việc giao kết hợp đồng: Ngày 23-02-2022 ông Trần Xuân L mua bảo hiểm cho con gái là cháu Trần Ngọc A, sinh ngày 11-7-2020 thông qua hình thức đơn bảo hiểm điện tử với Công ty Bảo hiểm Bưu điện N, là đơn vị trực thuộc của Tổng công ty cổ phần B. Sau khi ông Trần Xuân L đã đóng đầy đủ phí bảo hiểm, Công ty Bảo hiểm Bưu điện N đã cấp Giấy chứng nhận bảo hiểm số 000965/GCN/040-KTTT/VTA-PLUS/2022 ngày 23-02-2022. Giấy chứng nhận bảo hiểm và Phụ lục kèm theo có ghi các nội dung cụ thể của hợp đồng bảo hiểm, bao gồm: Người mua bảo hiểm là ông Trần Xuân L, người được bảo hiểm là cháu Trần Ngọc A; thời hạn bảo hiểm đối với cháu Trần Ngọc A là 12 tháng, tính từ ngày 24-02-2022 đến ngày 24-02-2023; phí bảo hiểm là 790.000 đồng; quyền lợi bảo hiểm: Người được bảo hiểm được hưởng quỹ trợ cấp nằm viện điều trị dịch bệnh tại các cơ sở y tế khi người được bảo hiểm nhập viện sau 03 ngày kể từ ngày bắt đầu bảo hiểm là 12.000.000 đồng. Đối với người được bảo hiểm đã tiêm chủng phòng ngừa dịch bệnh thì quỹ trợ cấp này tăng gấp đôi, tức là sẽ được hưởng 24.000.000 đồng. Ngoài ra giấy chứng nhận bảo hiểm và phụ lục kèm theo còn có các nội dung về điều khoản loại trừ trách nhiệm bảo hiểm, thời hạn trả tiền bảo hiểm. Tòa án cấp sơ thẩm căn cứ Điều 13, Điều 14, Điều 15, Điều 22 Luật kinh doanh bảo hiểm năm 2000 (sửa đổi, bổ sung năm 2019) xác định hợp đồng bảo hiểm giữa ông Trần Xuân L và Tổng công ty cổ phần B là hợp pháp và có hiệu lực thực hiện; trách nhiệm bảo hiểm của Tổng công ty cổ phần B đối với cháu Trần Ngọc A phát sinh từ ngày 24-02- 2022 đến ngày 24-02-2023 là đúng với quy định của pháp luật.

3.1.2. Về sự kiện bảo hiểm: Căn cứ vào Phiếu xét nghiệm PCR ngày 01-3- 2022 của Công ty TNHH Tuệ Lâm - Phòng khám đa khoa 153 thì cháu Trần Ngọc A bị mắc bệnh Covid-19. Như vậy, cháu Trần Ngọc A đã bị mắc bệnh Covid-19 sau 05 ngày kể từ ngày được bắt đầu bảo hiểm là ngày 24-02-2022. Ngay trong ngày 01-3-2022, cháu Trần Ngọc A đã được đưa vào Cơ sở thu dung điều trị Covid-19 thuộc Trung tâm Y tế huyện Hàm Yên - Sở Y tế tỉnh Tuyên Quang; đây là cơ sở y tế hợp pháp được Sở Y tế tỉnh Tuyên Quang thành lập để điều trị cho các bệnh nhân mắc Covid-19. Các tình tiết trên là cơ sở để xác định sự kiện bảo hiểm được nêu trong Giấy chứng nhận bảo hiểm số 000965/GCN/040-KTTT/VTA-PLUS/2022 ngày 23-02-2022 và phụ lục kèm theo đã xảy ra trong thời hạn bảo hiểm của cháu Trần Ngọc A là đúng pháp luật 3.1.3. Về nghĩa vụ trả tiền bảo hiểm: Căn cứ nhận định tại mục 2.2 về việc cháu Trần Ngọc A bị mắc bệnh Covid-19 trong thời hạn bảo hiểm, được điều trị tại cơ sở y tế hợp pháp là sự kiện bảo hiểm được nêu trong Giấy chứng nhận bảo hiểm số 000965/GCN/040-KTTT/VTA-PLUS/2022 ngày 23-02-2022 và phụ lục kèm theo; đồng thời việc cháu Trần Ngọc A bị mắc bệnh Covid-19 không thuộc bất cứ điểm loại trừ nào được ghi trong Quy tắc bảo hiểm số 270/QĐ-PTI- BHCN và Giấy chứng nhận bảo hiểm số 000965/GCN/040-KTTT/VTA- PLUS/2022 ngày 23-02-2022. Vì vậy, căn cứ Điều 16 và điểm c khoản 2 Điều 17 Luật kinh doanh bảo hiểm năm 2000 (sửa đổi, bổ sung năm 2019) thì Tổng công ty cổ phần B có nghĩa vụ trả tiền bảo hiểm cho người thụ hưởng là bà Đỗ Thị S (mẹ đẻ của cháu Trần Ngọc A) theo quy định của hợp đồng bảo hiểm.

Do cháu Trần Ngọc A bị mắc bệnh Covid-19 khi chưa được tiêm chủng phòng ngừa dịch bệnh, vì vậy căn cứ quy định tại phụ lục của Giấy chứng nhận bảo hiểm số 000965/GCN/040-KTTT/VTA-PLUS/2022 ngày 23-02-2022 thì số tiền bảo hiểm cho trường hợp của cháu Trần Ngọc A là 12.000.000 đồng.

Đối với quan điểm của Tổng công ty cổ phần B cho rằng cháu Trần Ngọc A mắc bệnh Covid-19, nhưng không thuộc nhóm nguy cơ cần điều trị tại cơ sở y tế theo hướng dẫn tại Quyết định số 5525/QĐ-BYT ngày 01-12-2021 và Quyết định 250/QĐ-BYT ngày 28-01-2022 của Bộ Y tế, do đó trường hợp của cháu Trần Ngọc A là không thuộc trường hợp được trả tiền bảo hiểm. Hội đồng xét xử thấy rằng: Căn cứ mục 3 Quyết định số 5525/QĐ-BYT ngày 01-12-2021 của Bộ Y tế thì cháu Trần Ngọc A thuộc loại nguy cơ trung bình, định hướng điều trị tại “bệnh viện hoặc cơ sở thu dung điều trị Covid-19, trong trường hợp quá tải thì có thể xem xét điều trị tại cộng đồng”; căn cứ ghi chú tại bảng 4, mục 6.1 Quyết định 250/QĐ-BYT ngày 28-01-2022 của Bộ Y tế về nguyên tắc điều trị thì “người bệnh nhiễm COVID-19 không triệu chứng hoặc mức độ nhẹ có thể điều trị tại nhà hoặc các cơ sở thu dung điều trị COVID-19 tuỳ theo tình hình dịch tại từng địa phương”. Trường hợp của cháu Trần Ngọc A thực tế đã được cơ sở y tế có thẩm quyền tiếp nhận và điều trị bệnh Covid-19, như vậy là thuộc trường hợp cần thiết phải điều trị tại cơ sở y tế. Quan điểm của Tổng công ty cổ phần B cho rằng cháu Trần Ngọc A mắc bệnh Covid-19, nhưng không thuộc nhóm nguy cơ cần điều trị tại cơ sở y tế nên không được trả tiền bảo hiểm là không có cơ sở chấp nhận Tòa án cấp sơ thẩm xác định Tổng công cổ phần Bảo hiểm Bưu điện phải có trách nhiệm chi trả bảo hiểm cho người thu hưởng là vợ chồng anh Trần Xuân L là có cơ sở và đúng pháp luật.

3.2. Về nghĩa vụ chậm trả:

Căn cứ Điều 29 Luật kinh doanh bảo hiểm năm 2000 (sửa đổi, bổ sung năm 2019) và mục 2 chương V Quy tắc bảo hiểm số 270/QĐ-PTI-BHCN, mục 3 phần III Giấy chứng nhận bảo hiểm số 000965/GCN/040-KTTT/VTA- PLUS/2022 ngày 23-02-2022 thì Tổng công ty cổ phần B có nghĩa vụ trả tiền bảo hiểm trong thời hạn chậm nhất là 10 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được bộ hồ sơ đầy đủ và hợp lệ. Theo xác nhận của người đại diện Tổng công ty cổ phần B thì Tổng công ty cổ phần B đã nhận được bộ hồ sơ yêu cầu trả tiền bảo hiểm của ông Trần Xuân L đối với trường hợp của cháu Trần Ngọc A, không yêu cầu phải bổ sung thêm hồ sơ, tài liệu gì khác. Vì vậy, thời hạn cuối cùng mà Tổng công ty cổ phần B phải trả tiền bảo hiểm là ngày 14-4-2022. Do Tổng công ty cổ phần B không trả tiền bảo hiểm đúng thời hạn nên đã vi phạm nghĩa vụ thanh toán. Căn cứ Điều 357 và Điều 468 Bộ luật Dân sự năm 2015, Tổng công ty cổ phần B phải trả tiền chậm trả đối với số tiền bảo hiểm với mức lãi suất 10%/năm, kể từ ngày 15-4-2022 cho đến khi thanh toán xong số tiền bảo hiểm của cháu Trần Ngọc A.

Cụ thể số tiền chậm trả tính đến hết ngày xét xử sơ thẩm (18-7-2023) là:

12.000.000 đồng x 10%/năm/12 tháng x 15 tháng 03 ngày = 1.510.000 đồng.

Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 13 Nghị quyết số 01/2019/NQ-HĐTP ngày 11-01-2019 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao, kể từ ngày tiếp theo của ngày xét xử sơ thẩm cho đến khi thi hành án xong, Tổng công ty cổ phần B phải tiếp tục trả tiền lãi đối với số tiền phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân sự năm 2015.

Việc xác định nghĩa vụ chậm trả của Tòa án cấp sơ thẩm là hoàn toàn phù hợp và đúng quy định của pháp luật.

3.3. Về nội dung: Đình chỉ yêu cầu khởi kiện của anh Trần Xuân L về việc đề nghị cơ quan có thẩm quyền xử phạt hành chính đối với Tổng công ty cổ phần B do chậm trả tiền bồi thường. Xét thấy trong quá trình giải quyết vụ án tại cấp sơ thẩm, bà Hoàng Thị T rút yêu cầu khởi kiện nội dung này, đồng thời yêu cầu khởi kiện này không thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nên Tòa án cấp sơ thẩm đình chỉ giải quyết yêu cầu khởi kiện này là đúng pháp luật.

[4] Tại phiên tòa người kháng cáo không nộp bổ sung tài liệu nào để chứng minh cho yêu cầu kháng cáo của mình. Vì vây, từ những phân tích nêu trên xét thấy kháng cáo của Tổng công ty cổ phần B không có căn cứ nên không được chấp nhận.

[5] Về án phí dân sự phúc thẩm: Do kháng cáo của bị đơn không được chấp nhận nên phải nộp án phí dân sự theo quy định của pháp luật

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ vào khoản 1 Điều 308 Bộ luật tố tụng dân sự 2015. Giữ nguyên bản dân sự sơ thẩm số 68/2023/DS-ST ngày 18-7-2023 của Toà án nhân dân thành phố N, tỉnh N.

2. Về án phí: Căn cứ Điều 147 của Bộ luật Tố tụng dân sự; điểm đ khoản 1 Điều 12, Điều 13, điểm a khoản 2 và điểm a khoản 7 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: Tổng công ty cổ phần B phải nộp 300.000 đồng án phí dân sự phúc thẩm, đối trừ với số tiền 300.000 đồng PTI đã nộp tại Cục thi hành án dân sự tỉnh N theo biên lai số 0000277 ngày 24-7-2023, Tổng công ty cổ phần B đã nộp đủ.

Trong trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 của Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 của Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 của Luật Thi hành án dân sự.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực thi hành kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

17
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp hợp đồng bảo hiểm số 49/2023/DS-PT

Số hiệu:49/2023/DS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Nam Định
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 12/12/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về