Bản án về tranh chấp hợp đồng bảo hiểm số 44/2023/DS-PT

TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỈNH NAM ĐỊNH

BẢN ÁN 44/2023/DS-PT NGÀY 11/12/2023 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG BẢO HIỂM

Ngày 11 tháng 12 năm 2023, tại trụ sở Toà án nhân dân tỉnh Nam Định mở phiên toà xét xử phúc thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 62/2023/TLPT-DS ngày 16-10-2023 về việc “Tranh chấp hợp đồng bảo hiểm”.

Do bản án dân sự sơ thẩm số 74/2023/DS-ST ngày 18 tháng 8 năm 2023 của Tòa án nhân dân thành phố Nam Định bị kháng cáo.

Theo quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 37/2023/QĐXX-PT ngày 30 tháng 10 năm 2023 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị Kim C, sinh năm 1990; Nơi cư trú: thôn C1, xã Đ, huyện H, tỉnh Q.

Người đại diện theo ủy quyền: Bà Hoàng Thị T, sinh năm 1966; nơi thường trú: Thôn L 2, xã T, huyện H, tỉnh Q; (Theo Giấy ủy quyền ngày 15-5-2023).

2. Bị đơn: Tổng công ty cổ phần Bảo hiểm B. Địa chỉ trụ sở: Số 95 Trần Thái Tông, phường Dịch Vọng Hậu, quận Cầu Giấy, thành phố Hà Nội.

Người đại diện theo pháp luật: Bà Hoàng Thị Y - Chức vụ: Tổng giám đốc; Người đại diện theo ủy quyền trong quá trình giải quyết vụ án: Ông Hà Minh T - Chức vụ: Phó Giám đốc Công ty Bảo hiểm B Nam Định (theo Giấy ủy quyền số 109/GUQ-PTI-PCKSNB ngày 13-02-2023); người đại diện theo ủy quyền tham gia phiên tòa: Ông Phạm Quang Đ, sinh năm 1994 và ông Hồ Đình Q, sinh năm 1995 chức vụ: Chuyên viên Ban pháp chế Tổng công ty CP Bảo hiểm B (Văn bản uỷ quyền số 1024 ngày 01-12-2023);

3. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

- Anh Triệu Văn T, sinh năm 1987; Nơi cư trú: thôn C1, xã Đ, huyện H, tỉnh Q.

Người đại diện theo ủy quyền: Bà Hoàng Thị T, sinh năm 1966; nơi thường trú: Thôn L 2, xã T, huyện H, tỉnh Q; (Theo Giấy ủy quyền ngày 15-5-2023).

- Cháu Triệu Nhật K, sinh ngày 21-02-2019; Nơi cư trú: thôn C1, xã Đ, huyện H, tỉnh Q. Người đại diện theo pháp luật: chị Nguyễn Thị Kim C và anh Triệu Văn T.

4. Người kháng cáo: Tổng công ty cổ phần Bảo hiểm B là bị đơn trong vụ án. Tại phiên tòa có mặt bà T, ông Đ.

NỘI DUNG VỤ ÁN

1. Tại đơn khởi kiện ngày 22-5-2023 và trong quá trình tham gia tố tụng, người đại diện theo ủy quyền nguyên đơn (chị Nguyễn Thị Kim C), đồng thời là người đại diện theo ủy quyền của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan (anh Triệu Văn T) là bà Hoàng Thị T trình bày:

Chị Nguyễn Thị Kim C và anh Triệu Văn T là vợ chồng, có con trai tên là Triệu Nhật K, sinh ngày 21-02-2019. Ngày 23-02-2022 chị Nguyễn Thị Kim C mua bảo hiểm cho cháu Triệu Nhật K thông qua hình thức đơn bảo hiểm điện tử với Công ty Bảo hiểm B Nam Định là đơn vị trực thuộc của Tổng công ty cổ phần Bảo hiểm B. Gói bảo hiểm mua cho cháu Triệu Nhật K thuộc chương trình “VTA +”, được thực hiện theo Quy tắc bảo hiểm số 270/QĐ-PTI-BHCN của Tổng công ty cổ phần Bảo hiểm B.

Toàn bộ thủ tục đăng ký mua bảo hiểm, nộp phí bảo hiểm, cấp giấy chứng nhận bảo hiểm cho cháu Triệu Nhật K đều được thực hiện online trên hệ thống phần mềm của Tổng công ty cổ phần Bảo hiểm B. Việc chị Nguyễn Thị Kim C mua bảo hiểm cho cháu Triệu Nhật K đã được cấp Giấy chứng nhận bảo hiểm số 0001098/GCN/040-KTTT/VTA-PLUS/2022 ngày 23-02-2022. Giấy chứng nhận bảo hiểm có các nội dung cụ thể như sau:

- Người mua bảo hiểm là chị Nguyễn Thị Kim C; người được bảo hiểm là cháu Triệu Nhật K.

- Thời hạn bảo hiểm đối với cháu Triệu Nhật K là 12 tháng, tính từ ngày 24- 02-2022 đến ngày 24-02-2023.

- Phí bảo hiểm là 790.000 đồng. Phí bảo hiểm đã được chị Nguyễn Thị Kim C đóng toàn bộ một lần vào ngày 23-02-2022.

- Quyền lợi bảo hiểm: Người được bảo hiểm được hưởng quỹ trợ cấp nằm viện điều trị dịch bệnh tại các cơ sở y tế khi người được bảo hiểm nhập viện sau 03 ngày kể từ ngày bắt đầu bảo hiểm là 12.000.000 đồng. Đối với người được bảo hiểm đã tiêm chủng phòng ngừa dịch bệnh thì quỹ trợ cấp này tăng gấp đôi, tức là sẽ được hưởng 24.000.000 đồng.

Cháu Triệu Nhật K chưa được tiêm chủng phòng ngừa bệnh Covid-19. Đến ngày 04-3-2022 thì xác định bị mắc bệnh Covid-19 theo Phiếu xét nghiệm PCR của Công ty TNHH L - Phòng khám đa khoa 153. Ngày 06-3-2022, cháu Triệu Nhật K được đưa vào điều trị tại “Cơ sở thu dung điều trị Covid-19 thuộc Trung tâm Y tế huyện H - Sở Y tế tỉnh Q” để điều trị bệnh Covid-19. Đến ngày 12-3- 2022 cháu Triệu Nhật K được ra viện.

Sau khi sự kiện bảo hiểm xảy ra, chị Nguyễn Thị Kim C đã làm thủ tục thông báo việc cháu Triệu Nhật K bị mắc bệnh Covid-19 và phải điều trị tại cơ sở y tế cho Tổng công ty cổ phần Bảo hiểm B. Các giấy yêu cầu bảo hiểm, chứng từ điều trị của cháu Triệu Nhật K đã được chụp ảnh và cập nhật trên hệ thống phần mềm của Tổng công ty cổ phần Bảo hiểm B ngay trong tháng 3/2022. Ngoài việc khai báo online, chị Nguyễn Thị Kim C còn gửi bộ hồ sơ gốc yêu cầu bảo hiểm và chứng từ điều trị cho Tổng công ty cổ phần Bảo hiểm B theo đường bưu chính.

Ngày 10-5-2022, Tổng công ty cổ phần Bảo hiểm B có thông báo giải quyết quỹ hỗ trợ với mức chi hỗ trợ cho cháu Triệu Nhật K là 3.600.000 đồng. Chị Nguyễn Thị Kim C không đồng ý với mức hỗ trợ nói trên và yêu cầu Tổng công ty cổ phần Bảo hiểm B phải thực hiện trả tiền bảo hiểm cho cháu Triệu Nhật K là 12.000.000 đồng đồng với lý do theo Giấy chứng nhận bảo hiểm số 0001098/GCN/040-KTTT/VTA-PLUS/2022 ngày 23-02-2022 và Phụ lục tại trang 2 thì trường hợp của cháu Triệu Nhật K đã thỏa mãn tất cả các điều kiện của hợp đồng bảo hiểm. Cụ thể là cháu Triệu Nhật K chưa được tiêm chủng phòng ngừa bệnh Covid-19 và đã bị mắc bệnh Covid-19 sau hơn 03 ngày kể từ ngày bắt đầu bảo hiểm, đã được điều trị tại cơ sở y tế do cơ quan nhà nước có thẩm quyền thành lập; đồng thời trường hợp của cháu Triệu Nhật K không thuộc bất cứ điểm loại trừ nào theo Quy tắc bảo hiểm số 270/QĐ-PTI-BHCN và Giấy chứng nhận bảo hiểm số 0001098/GCN/040-KTTT/VTA-PLUS/2022 ngày 23-02-2022 của Tổng công ty cổ phần Bảo hiểm B.

Ngoài ra, theo quy định của khoản 3, mục tóm tắt nội dung bảo hiểm của Giấy chứng nhận bảo hiểm số 0001098/GCN/040-KTTT/VTA-PLUS/2022 ngày 23-02-2022 thì Tổng công ty cổ phần Bảo hiểm B phải trả tiền bảo hiểm trong thời hạn 10 ngày làm việc kể từ ngày nhận được bộ hồ sơ hợp lệ. Trường hợp của cháu Triệu Nhật K thì bộ hồ sơ hợp lệ đã được tiếp nhận từ ngày 31-3-2022, vì vậy thời hạn cuối cùng mà Tổng công ty cổ phần Bảo hiểm B phải trả tiền là ngày 14-4- 2022. Ngày Tổng công ty cổ phần Bảo hiểm B bắt đầu vi phạm nghĩa vụ trả tiền là từ ngày 15-4-2022. Chị Nguyễn Thị Kim C yêu cầu Tổng công ty cổ phần Bảo hiểm B phải trả tiền chậm trả theo quy định tại Điều 357 và Điều 468 Bộ luật Dân sự năm 2015 với mức lãi suất 10%/năm từ ngày 15-4-2022 cho đến khi thanh toán xong số tiền bảo hiểm cho chị Nguyễn Thị Kim C.

Hiện tại, chị Nguyễn Thị Kim C yêu cầu Tòa án giải quyết các vấn đề sau:

- Buộc Tổng công ty cổ phần Bảo hiểm B phải thực hiện trả tiền bảo hiểm cho trường hợp của cháu Triệu Nhật K là 12.000.000 đồng (mười hai triệu đồng).

- Buộc Tổng công ty cổ phần Bảo hiểm B phải trả tiền chậm trả theo quy định tại Điều 357 và Điều 468 Bộ luật Dân sự năm 2015 với mức lãi suất 10%/năm đối với số tiền bảo hiểm chậm trả kể từ ngày 15-4-2022 cho đến khi thanh toán xong số tiền bảo hiểm cho trường hợp của cháu Triệu Nhật K.

2. Trong quá trình giải quyết vụ án, người đại diện theo ủy quyền của bị đơn (Tổng công ty cổ phần Bảo hiểm B) là ông Hoàng Văn Y trình bày:

Ngày 23-02-2022 chị Nguyễn Thị Kim C đã mua bảo hiểm cho cháu Triệu Nhật K thuộc chương trình “VTA +”, được thực hiện theo Quy tắc bảo hiểm số 270/QĐ-PTI-BHCN của Tổng công ty cổ phần Bảo hiểm B. Thủ tục đăng ký mua bảo hiểm, nộp phí bảo hiểm, cấp giấy chứng nhận bảo hiểm cho cháu Triệu Nhật K được thực hiện online trên hệ thống phần mềm của Tổng công ty cổ phần Bảo hiểm B. Cháu Triệu Nhật K đã được cấp Giấy chứng nhận bảo hiểm số 0001098/GCN/040-KTTT/VTA-PLUS/2022 ngày 23-02-2022. Thời hạn bảo hiểm đối với cháu Triệu Nhật K là 12 tháng, tính từ ngày 24-02-2022 đến ngày 24-02- 2023. Phí bảo hiểm là 790.000 đồng, đã được chị Nguyễn Thị Kim C đóng toàn bộ vào ngày 23-02-2022.

Sau khi cháu Triệu Nhật K bị mắc bệnh Covid-19 và được điều trị tại Cơ sở thu dung điều trị Covid-19 thuộc Trung tâm Y tế huyện H - Sở Y tế tỉnh Q, chị Nguyễn Thị Kim C đã làm thủ tục thông báo trên hệ thống phần mềm của Tổng công ty cổ phần Bảo hiểm B. Tổng công ty cổ phần Bảo hiểm B cũng đã nhận được bộ hồ sơ gốc yêu cầu trả tiền bảo hiểm của khách hàng Triệu Nhật K, bao gồm giấy yêu cầu bảo hiểm và các chứng từ điều trị của cháu Triệu Nhật K từ ngày 31-3-2022. Tổng công ty cổ phần Bảo hiểm B không yêu cầu chị Nguyễn Thị Kim C bổ sung thêm hồ sơ, tài liệu gì khác.

Cháu Triệu Nhật K mắc bệnh Covid-19 là thuộc sự kiện bảo hiểm quy định trong chương trình bảo hiểm “VTA +”. Tuy nhiên do cháu Triệu Nhật K bị mắc bệnh Covid-19 sau khi Chính phủ thực hiện chủ trương miễn dịch cộng đồng, số lượng người mắc bệnh Covid-19 rất nhiều. Để giải quyết việc điều trị cho người mắc bệnh Covid-19, Bộ Y tế đã ban hành Quyết định số 5525/QĐ-BYT ngày 01- 12-2021 và Quyết định 250/QĐ-BYT ngày 28-01-2022 để phân loại nhóm nguy cơ cần điều trị tại cơ sở y tế. Theo hướng dẫn của các văn bản trên thì cháu Triệu Nhật K mắc bệnh Covid-19, nhưng không thuộc nhóm nguy cơ cần điều trị tại cơ sở y tế. Vì vậy trường hợp của cháu Triệu Nhật K là không thuộc trường hợp được trả tiền bảo hiểm. Tổng công ty cổ phần Bảo hiểm B đã thông báo đồng ý hỗ trợ cho cháu Triệu Nhật K số tiền là 3.600.000 đồng (ba triệu đồng) nhưng chị Nguyễn Thị Kim C không đồng ý.

Hiện tại Tổng công ty cổ phần Bảo hiểm B yêu cầu Tòa án giải quyết tranh chấp bảo hiểm theo quy định của pháp luật. Đồng thời, Tổng công ty cổ phần Bảo hiểm B không chấp nhận yêu cầu của chị Nguyễn Thị Kim C về việc trả tiền chậm trả đối với số tiền bảo hiểm vì giữa hai bên xảy ra tranh chấp chi trả tiền bảo hiểm.

* Bản án sơ thẩm số 74/2023/DS-ST ngày 18 tháng 8 năm 2023 của Tòa án nhân dân thành phố Nam Định đã quyết định:

- Căn cứ Điều 357; Điều 468 Bộ luật Dân sự 2015;

- Căn cứ Điều 13; Điều 14; Điều 15; Điều 16; điểm c khoản 2 Điều 17; Điều 22; Điều 29 Luật kinh doanh bảo hiểm năm 2000 (sửa đổi, bổ sung năm 2019);

- Căn cứ khoản 3 Điều 26; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm b khoản 1 Điều 40; khoản 1 Điều 147; điểm c, g khoản 1 Điều 217; Điều 218 Bộ luật Tố tụng dân sự;

- Căn cứ khoản 2 Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12- 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa XIV;

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Nguyễn Thị Kim C.

1.1. Buộc Tổng công ty cổ phần Bảo hiểm B phải trả cho chị Nguyễn Thị Kim C và anh Triệu Văn T số tiền bảo hiểm đối với cháu Triệu Nhật Khang là 12.000.000 đồng (mười hai triệu đồng).

1.2. Buộc Tổng công ty cổ phần Bảo hiểm B phải trả cho chị Nguyễn Thị Kim C và anh Triệu Văn T số tiền chậm trả đối với số tiền bảo hiểm kể từ ngày 15- 4-2022 đến hết ngày xét xử sơ thẩm 18-8-2023 là 1.610.000 đồng (một triệu sáu trăm mười nghìn đồng) Kể từ ngày tiếp theo của ngày xét xử sơ thẩm (là ngày 18-8-2023), Tổng công ty cổ phần Bảo hiểm B phải tiếp tục trả tiền chậm trả đối với số tiền bảo hiểm phải trả theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân sự năm 2015 cho đến khi thanh toán xong toàn bộ số tiền bảo hiểm.

2. Án phí:

Chị Nguyễn Thị Kim C không phải nộp án phí dân sự sơ thẩm. Trả lại cho chị Nguyễn Thị Kim C số tiền tạm ứng án phí 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) do bà Hoàng Thị T đã nộp thay chị Nguyễn Thị Kim C tại biên lai số 0000151 ngày 14-6-2023 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Nam Định, tỉnh Nam Định.

* Tại đơn kháng cáo ngày 28 - 8.-2023 của Tổng công ty bảo hiểm B kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm, đề nghị Toà án nhân dân tỉnh Nam Định xét xử phúc thẩm vụ án theo đúng quy định của pháp luật nhằm đảm bảo quyền, lợi ích hợp pháp của Tổng công ty bảo hiểm B.

* Tại phiên tòa các đương sự vẫn giữ nguyên lời trình bày, ý kiến, quan điểm như đã nêu trên. Bị đơn vẫn giữ nguyên yêu cầu kháng cáo; nguyên đơn không chấp nhận kháng cáo của bị đơn, đề nghị giữ nguyên bản án sơ thẩm.

* Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Nam Định tham gia phiên tòa phát biểu quan điểm:

Về tố tụng: Thẩm phán chủ tọa phiên tòa, Hội đồng xét xử và thư ký phiên tòa đã thực hiện đúng các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Trong quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa phúc thẩm, những người tham gia tố tụng chấp hành đúng các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.

Về nội dung: Kháng cáo của bị đơn là không có căn cứ chấp nhận; tuy nhiên bản án sơ thẩm không buộc bị đơn phải nộp án phí là thiếu sót, vì vậy đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 2 Điều 308 Bộ luật tố tụng dân sự sửa bản án sơ thẩm về phần án phí.

Về án phí: Đề nghị giải quyết theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ đã được xem xét tại phiên toà và kết quả tranh tụng tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng: Đơn kháng cáo của bị đơn làm trong thời hạn luật định nên được xem xét giải quyết theo trình tự phúc thẩm.

[2] Xét kháng cáo của bị đơn:

[2.1] Về việc giao kết hợp đồng:

Ngày 23-02-2022 chị Nguyễn Thị Kim C mua bảo hiểm cho con trai là cháu Triệu Nhật K, sinh ngày 21-02-2019 thông qua hình thức đơn bảo hiểm điện tử với Công ty Bảo hiểm B Nam Định, là đơn vị trực thuộc của Tổng công ty cổ phần Bảo hiểm B. Sau khi chị Nguyễn Thị Kim C đã đóng đầy đủ phí bảo hiểm, Công ty Bảo hiểm B Nam Định đã cấp Giấy chứng nhận bảo hiểm số 0001098/GCN/040- KTTT/VTA-PLUS/2022 ngày 23-02-2022. Giấy chứng nhận bảo hiểm và Phụ lục kèm theo có ghi các nội dung cụ thể của hợp đồng bảo hiểm, bao gồm: Người mua bảo hiểm là chị Nguyễn Thị Kim C, người được bảo hiểm là cháu Triệu Nhật K; thời hạn bảo hiểm đối với cháu Triệu Nhật K là 12 tháng, tính từ ngày 24-02-2022 đến ngày 24-02-2023; phí bảo hiểm là 790.000 đồng; quyền lợi bảo hiểm: Người được bảo hiểm được hưởng quỹ trợ cấp nằm viện điều trị dịch bệnh tại các cơ sở y tế khi người được bảo hiểm nhập viện sau 03 ngày kể từ ngày bắt đầu bảo hiểm là 12.000.000 đồng. Ngoài ra giấy chứng nhận bảo hiểm và phụ lục kèm theo còn có các nội dung về điều khoản loại trừ trách nhiệm bảo hiểm, thời hạn trả tiền bảo hiểm... Căn cứ Điều 13, Điều 14, Điều 15, Điều 22 Luật kinh doanh bảo hiểm năm 2000 (sửa đổi, bổ sung năm 2019) thì hợp đồng bảo hiểm giữa chị Nguyễn Thị Kim C và Tổng công ty cổ phần Bảo hiểm B là hợp pháp và có hiệu lực thực hiện; trách nhiệm bảo hiểm của Tổng công ty cổ phần Bảo hiểm B đối với cháu Triệu Nhật K phát sinh từ ngày 24-02-2022 đến ngày 24-02-2023.

[2.2] Về sự kiện bảo hiểm:

Căn cứ vào Phiếu xét nghiệm PCR ngày 04-3-2022 của Công ty TNHH L - Phòng khám đa khoa 153 thì cháu Triệu Nhật K bị mắc bệnh Covid-19. Như vậy, cháu Triệu Nhật K đã bị mắc bệnh Covid-19 sau 9 ngày kể từ ngày được bắt đầu bảo hiểm là ngày 24-02-2022. Ngày 06-3-2022, cháu Triệu Nhật K đã được đưa vào Cơ sở thu dung điều trị Covid-19 thuộc Trung tâm Y tế huyện H - Sở Y tế tỉnh Q; đây là cơ sở y tế hợp pháp được Sở Y tế tỉnh Q thành lập để điều trị cho các bệnh nhân mắc Covid-19. Các tình tiết trên là cơ sở để xác định sự kiện bảo hiểm được nêu trong Giấy chứng nhận bảo hiểm số 0001098/GCN/040-KTTT/VTA- PLUS/2022 ngày 23-02-2022 và phụ lục kèm theo đã xảy ra trong thời hạn bảo hiểm của cháu Triệu Nhật K.

[2.3] Về nghĩa vụ trả tiền bảo hiểm:

Căn cứ nhận định tại mục 2.2 về việc cháu Triệu Nhật K bị mắc bệnh Covid- 19 trong thời hạn bảo hiểm, được điều trị tại cơ sở y tế hợp pháp là sự kiện bảo hiểm được nêu trong Giấy chứng nhận bảo hiểm số 0001098/GCN/040- KTTT/VTA-PLUS/2022 ngày 23-02-2022 và phụ lục kèm theo; đồng thời việc cháu Triệu Nhật K bị mắc bệnh Covid-19 không thuộc bất cứ điểm loại trừ nào được ghi trong Quy tắc bảo hiểm số 270/QĐ-PTI-BHCN và Giấy chứng nhận bảo hiểm số 0001098/GCN/040-KTTT/VTA-PLUS/2022 ngày 23-02-2022. Vì vậy, căn cứ Điều 16 và điểm c khoản 2 Điều 17 Luật kinh doanh bảo hiểm năm 2000 (sửa đổi, bổ sung năm 2019) thì Tổng công ty cổ phần Bảo hiểm B có nghĩa vụ trả tiền bảo hiểm cho người thụ hưởng là cháu Triệu Nhật K theo quy định của hợp đồng bảo hiểm.

Do cháu Triệu Nhật K bị mắc bệnh Covid-19 do chưa được tiêm chủng phòng ngừa dịch bệnh Covid-19, vì vậy căn cứ quy định tại phụ lục của Giấy chứng nhận bảo hiểm số 0001098/GCN/040-KTTT/VTA-PLUS/2022 ngày 23-02- 2022 thì số tiền bảo hiểm cho trường hợp của cháu Triệu Nhật K là 12.000.000 đồng.

Đối với quan điểm của Tổng công ty cổ phần Bảo hiểm B cho rằng cháu Triệu Nhật K mắc bệnh Covid-19, nhưng không thuộc nhóm nguy cơ cần điều trị tại cơ sở y tế theo hướng dẫn tại Quyết định số 5525/QĐ-BYT ngày 01-12-2021 và Quyết định 250/QĐ-BYT ngày 28-01-2022 của Bộ Y tế, do đó trường hợp của cháu Triệu Nhật K là không thuộc trường hợp được trả tiền bảo hiểm. Hội đồng xét xử thấy rằng: Căn cứ mục 3 Quyết định số 5525/QĐ-BYT ngày 01-12-2021 của Bộ Y tế thì cháu Triệu Nhật K thuộc loại nguy cơ trung bình, định hướng điều trị tại “bệnh viện hoặc cơ sở thu dung điều trị Covid-19, trong trường hợp quá tải thì có thể xem xét điều trị tại cộng đồng”; căn cứ ghi chú tại bảng 4, mục 6.1 Quyết định 250/QĐ-BYT ngày 28-01-2022 của Bộ Y tế về nguyên tắc điều trị thì “người bệnh nhiễm COVID-19 không triệu chứng hoặc mức độ nhẹ có thể điều trị tại nhà hoặc các cơ sở thu dung điều trị COVID-19 tuỳ theo tình hình dịch tại từng địa phương”. Trường hợp của cháu Triệu Nhật K thực tế đã được cơ sở y tế có thẩm quyền tiếp nhận và điều trị bệnh Covid-19, như vậy là thuộc trường hợp cần thiết phải điều trị tại cơ sở y tế. Quan điểm của Tổng công ty cổ phần Bảo hiểm B cho rằng cháu Triệu Nhật K mắc bệnh Covid-19, nhưng không thuộc nhóm nguy cơ cần điều trị tại cơ sở y tế nên không được trả tiền bảo hiểm là không có cơ sở chấp nhận.

[2.4] Về nghĩa vụ chậm trả:

Căn cứ Điều 29 Luật kinh doanh bảo hiểm năm 2000 (sửa đổi, bổ sung năm 2019) và mục 2 chương V Quy tắc bảo hiểm số 270/QĐ-PTI-BHCN, mục 3 phần III Giấy chứng nhận bảo hiểm số 0001098/GCN/040-KTTT/VTA-PLUS/2022 ngày 23-02-2022 thì Tổng công ty cổ phần Bảo hiểm B có nghĩa vụ trả tiền bảo hiểm trong thời hạn chậm nhất là 10 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được bộ hồ sơ đầy đủ và hợp lệ. Theo xác nhận của người đại diện Tổng công ty cổ phần Bảo hiểm B thì Tổng công ty cổ phần Bảo hiểm B đã nhận được bộ hồ sơ yêu cầu trả tiền bảo hiểm của chị Nguyễn Thị Kim C đối với trường hợp của cháu Triệu Nhật K vào ngày 31-3-2022, không yêu cầu phải bổ sung thêm hồ sơ, tài liệu gì khác. Vì vậy, thời hạn cuối cùng mà Tổng công ty cổ phần Bảo hiểm B phải trả tiền bảo hiểm là ngày 14-4-2022. Do Tổng công ty cổ phần Bảo hiểm B không trả tiền bảo hiểm đúng thời hạn nên đã vi phạm nghĩa vụ thanh toán. Căn cứ Điều 357 và Điều 468 Bộ luật Dân sự năm 2015, Tổng công ty cổ phần Bảo hiểm B phải trả tiền chậm trả đối với số tiền bảo hiểm với mức lãi suất 10%/năm, kể từ ngày 15-4-2022 cho đến khi thanh toán xong số tiền bảo hiểm của cháu Triệu Nhật K.

Cụ thể số tiền chậm trả tính đến hết ngày xét xử sơ thẩm (18-8-2023) là:

12.000.000 đồng x 10%/năm/12 tháng x 16 tháng 3 ngày = 1.610.000 đồng (một triệu sáu trăm mười nghìn đồng).

Kể từ ngày tiếp theo của ngày xét xử sơ thẩm, Tổng công ty cổ phần Bảo hiểm B phải tiếp tục trả tiền chậm trả đối với số tiền bảo hiểm phải trả theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân sự năm 2015 cho đến khi thanh toán xong toàn bộ số tiền bảo hiểm.

[2.5] Từ những phân tích nhận định nêu trên đã cho thấy những kết luận trong bản án sơ thẩm là có căn cứ và phù hợp với những quy định của pháp luật. Tại cấp phúc thẩm bị đơn không đưa ra được các chứng cứ và lý lẽ để chứng minh cho yêu cầu kháng cáo của mình nên không được chấp nhận.

Tuy nhiên bản án sơ thẩm nhận định bị đơn phải chịu án phí dân sự sơ thẩm nhưng không tuyên trong phần quyết định là thiếu sót, vì vậy cần sửa về phần án phí.

[3] Án phí dân sự phúc thẩm: Do sửa bản án nên bị đơn không phải nộp án phí dân sự phúc thẩm, được trả lại số tiền tạm ứng án phí phúc thẩm đã nộp.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 2 Điều 308 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015. Sửa bản án dân sự sơ thẩm số 74/2023/DS-ST ngày 18 tháng 8 năm 2023 của Tòa án nhân dân thành phố Nam Định.

Căn cứ Điều 357; Điều 468 Bộ luật Dân sự 2015; Điều 13; Điều 14; Điều 15; Điều 16; điểm c khoản 2 Điều 17; Điều 22; Điều 29 Luật kinh doanh bảo hiểm năm 2000 (sửa đổi, bổ sung năm 2019); Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa XIV;

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Nguyễn Thị Kim C.

1.1. Buộc Tổng công ty cổ phần Bảo hiểm B phải trả cho chị Nguyễn Thị Kim C và anh Triệu Văn T số tiền bảo hiểm đối với cháu Triệu Nhật K là 12.000.000 đồng (mười hai triệu đồng).

1.2. Buộc Tổng công ty cổ phần Bảo hiểm B phải trả cho chị Nguyễn Thị Kim C và anh Triệu Văn T số tiền chậm trả đối với số tiền bảo hiểm kể từ ngày 15- 4-2022 đến hết ngày xét xử sơ thẩm 18-8-2023 là 1.610.000 đồng (một triệu sáu trăm mười nghìn đồng) Kể từ ngày tiếp theo của ngày xét xử sơ thẩm (là ngày 18-8-2023), Tổng công ty cổ phần Bảo hiểm B phải tiếp tục trả tiền chậm trả đối với số tiền bảo hiểm phải trả theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân sự năm 2015 cho đến khi thanh toán xong toàn bộ số tiền bảo hiểm.

2. Án phí:

Chị Nguyễn Thị Kim C không phải nộp án phí dân sự sơ thẩm. Trả lại cho chị Nguyễn Thị Kim C số tiền tạm ứng án phí 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) do bà Hoàng Thị T đã nộp thay chị Nguyễn Thị Kim C tại biên lai số 0000151 ngày 14-6-2023 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Nam Định, tỉnh Nam Định.

Tổng công ty cổ phần Bảo hiểm B phải nộp án phí dân sự sơ thẩm là 680.000 đồng (sáu trăm tám mươi nghìn đồng).

Tổng công ty cổ phần Bảo hiểm B không phải nộp án phí dân sự phúc thẩm, được trả lại số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 300.000 đồng tại biên lai thu tiền tạm ứng án phí, lệ phí số 0000325 ngày 29/8/2023 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Nam Định, tỉnh Nam Định.

Trong trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án và người phải thi hành án có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực kể từ ngày tuyên án. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

48
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp hợp đồng bảo hiểm số 44/2023/DS-PT

Số hiệu:44/2023/DS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Nam Định
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành:11/12/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về