Bản án về tranh chấp hợp đồng bảo hiểm số 06/2022/KDTM-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

BẢN ÁN 06/2022/KDTM-PT NGÀY 15/03/2022 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG BẢO HIỂM

Ngày 15 tháng 3 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Đà Nẵng xét xử phúc thẩm công khai vụ án kinh doanh thương mại thụ lý số: 19/2021/TLPT-KDTM ngày 02 tháng 12 năm 2021 về “Tranh chấp Hợp đồng Bảo hiểm”.

Do Bản án kinh doanh thương mại sơ thẩm số: 24/2021/KDTM-ST ngày 25 tháng 10 năm 2021 của Tòa án nhân dân quận Hải Châu bị kháng cáo.

Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 58/2021/QĐ-PT ngày 31/12/2021; Quyết định hoãn phiên tòa phúc thẩm số: 07/2022/QĐ-PT ngày 17/01/2022 và Quyết định hoãn phiên tòa phúc thẩm số: 23/2022/QĐ-PT ngày 17/02/2022 của Tòa án nhân dân thành phố Đà Nẵng, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Ông Đào Ngọc Minh T, sinh năm 1977; địa chỉ: 186 đường D, Tổ 41 phường T, quận T, thành phố Đ. Có mặt.

- Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn: Ông Ông Quốc C, Luật sư Công ty Luật TNHH Đ&C thuộc Đoàn luật sư thành phố Đ; địa chỉ: 121 đường L, phường H, quận C, thành phố Đ. Có mặt.

- Bị đơn: Tổng Công ty Bảo hiểm PVI; địa chỉ trụ sở: Tầng 24, Tòa nhà PVI Tower, Lô VP2 Yên Hòa, phường Y, quận C, thành phố H. Người đại diện theo pháp luật: Ông Phạm Anh Đ – Chức vụ: Tổng Giám đốc.

- Người đại diện theo ủy quyền của bị đơn: Ông Phan Đại T – Phó Giám đốc Công ty Bảo hiểm PVI Đ; hoặc ông Trần Văn Đ, sinh năm 1969 – Trưởng phòng Phòng QLNV&BT Công ty Bảo hiểm PVI Đ; hoặc ông Nguyễn Trường A – Chuyên viên Phòng QLNV&BT Công ty Bảo hiểm PIV Đ; địa chỉ: Số 100- 102 đường N, phường N, quận H, thành phố Đ (theo Giấy ủy quyền số: 10/UQ- PVIBH ngày 12/01/2021). Và bà Đỗ Minh H, sinh năm 1985 – Trưởng phòng Pháp chế - Tổng Công ty Bảo hiểm PVI; địa chỉ liên hệ: Tầng 24, Tòa nhà PVI Tower, Lô VP2 Yên Hòa, phường Y, quận C, thành phố H; địa chỉ nơi cư trú: tổ 12 phường N, quận C, thành phố H. (theo Giấy ủy quyền số: 155/UQ-PVIBH ngày 13/7/2021). Bà H và ông Đ có mặt. Ông T, ông A vắng mặt.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

- Tổng Công ty Bảo hiểm Bảo Việt; địa chỉ: Số 104 đường T, phường C, quận H, thành phố H; Người đại diện theo pháp luật: Ông Nguyễn Xuân V – Chức vụ: Tổng Giám đốc.

- Người đại diện theo ủy quyền: Ông Võ Văn D – Trưởng phòng Kiểm tra pháp chế, Công ty Bảo Việt Đ; địa chỉ: Số 97 đường T, quận H, thành phố Đ (Theo Giấy ủy quyền số: 3009/UQ-BHBV ngày 23/6/2021). Có đơn xin xét xử vắng mặt.

- Tổng Công ty CP Bảo Minh; địa chỉ: Số 26 đường T, phường N, quận 1, thành phố H. Người đại diện theo pháp luật: Ông Vũ Anh T – Chức vụ: Tổng Giám đốc. Vắng mặt.

- Tổng Công ty CP Bảo hiểm Petrolimex; địa chỉ: Tầng 21, 22 Tòa nhà MIPEC-229 Tây Sơn, quận Đ, thành phố H. Người đại diện theo pháp luật: Ông Đào Nam H – Chức vụ: Tổng Giám đốc. Vắng mặt.

- Bà Lê Thị Ngọc L, sinh năm 1969; địa chỉ: 186 đường D, Tổ 41 phường T, quận T, thành phố Đ. Có mặt.

- Những người tham gia tố tụng khác:

- Cơ quan Giám định:

- Công ty TNHH Giám định và tư vấn kỹ thuật DNL; địa chỉ: Số 74 đường T, phường 11, quận 10, thành phố H. Người đại diện theo pháp luật: Ông Lê Minh Đ – Chức vụ: Giám đốc.

- Người đại diện theo ủy quyền: Ông Nguyễn Thanh H, sinh năm 1961- Phó Trưởng Văn phòng đại diện DNL tại M; trú tại: tổ 70 phường T, quận H, thành phố Đ. (theo Giấy ủy quyền số: 002/UQ-DNL ngày 10/3/2022), có mặt.

- Công ty CP Giám định và thẩm định giá Phương Đông; địa chỉ: BT5, số 52 đường L, phường M, quận H, thành phố H. Người đại diện theo pháp luật: Ông Đỗ Trí D – Chức vụ: Chủ tịch HĐQT.

- Người đại diện theo ủy quyền: Ông Nguyễn Ngọc T, sinh năm 1983- Thẩm định viên. (theo Giấy ủy quyền số: 01/2022/PĐ/UQ ngày 04/3/2022), có mặt.

- Người kháng cáo: Tổng Công ty Bảo hiểm PVI là bị đơn trong vụ án.

NỘI DUNG VỤ ÁN

- Nguyên đơn là ông Đào Ngọc Minh T trình bày: Ông Đào Ngọc Minh T là chủ tàu cá ĐNa-90369-TS, công suất 700CV, đã được cơ quan chức năng cấp Giấy chứng nhận đăng ký tàu cá số: ĐNa-90369-TS ngày 20/12/2013; Giấy chứng nhận cơ sở đủ điều kiện an toàn thực phẩm số: 275/2019/NNPTNT- Đna ngày 18/12/2019; Giấy phép khai thác thủy sản số: 271/2020/Đna-GPKTTS ngày 30/3/2020 của Chi cục thủy sản thành phố Đà Nẵng và Giấy chứng nhận an toàn kỹ thuật tàu cá ngày 25/12/2019 của Đăng kiểm tàu cá Đà Nẵng theo quy định pháp luật. Ngày 30/12/2019, ông T có mua bảo hiểm của Công ty Bảo hiểm PVI Đ thuộc Tổng Công ty Bảo hiểm PVI cho tàu cá ĐNa-90369-TS. Theo Giấy chứng nhận bảo hiểm khai thác hải sản số: 19/13/03/ND67/P000410 của Tổng Công ty Bảo hiểm PVI phát hành thể hiện nội dung: Hiệu lực bảo hiểm từ 00 giờ 00 phút ngày 30/12/2019 đến 00 giờ 00 phút ngày 30/12/2020, giá trị thực tế đối với thân tàu là 4.000.000.000 đồng, trong đó, vỏ tàu là 3.000.000.000 đồng, máy móc 700.000.000 đồng và trang thiết bị là 300.000.000 đồng. Vào ngày 29/5/2020, tàu của ông T xuất bến đi biển lúc 14 giờ, trên tàu có 4 thuyền viên, trước khi rời bến tình trạng của tàu cá vẫn hoạt động bình thường, xuất bến có đăng ký thông báo hoạt động cho bộ đội biên phòng đầy đủ thủ tục. Vào lúc khoảng 21 giờ ngày 04/6/2020 tại tọa độ 160-29N, 1090-58E, khi tàu đang hoạt động bình thường thì có vật gì đang trôi dưới biển va chạm vào tàu làm thủng tàu, nước tràn vào hầm máy, mặc dù nhân lực trên tàu đã cố gắng bơm nước ra ngoài và làm mọi cách để cứu tàu nhưng không được nên tàu bị chìm. Thuyền trưởng tàu đã bấm SOS cứu nạn và sau đó, tàu bạn ĐNA 90945TS đến cứu được người nhưng tàu chìm hẳn xuống biển, giá trị thiệt hại tổng tài sản là 5.400.000.000 đồng. Lúc tàu bị nạn, ông Tcó điện báo Công ty Bảo hiểm PVI biết tàu bị tai nạn. Sau đó, tàu ĐNA 90657TS đưa các thuyền viên về đất liền vào ngày 07/6/2020. Sau khi về đến đất liền, ông T lập tức đến khai báo tại Đồn biên phòng, lúc này Công ty Bảo hiểm PVI Đ biết sự cố chìm tàu nên có xuống trực tiếp lấy lời khai.

Ngày 30/7/2020, Công ty Bảo hiểm PVI Đ và ông T đã ký biên bản thỏa thuận giải quyết bồi thường tàu cá ĐNa-90369-TS và thông báo giá bồi thường là 2.300.589.000 đồng, sau đó là 2.400.447.000 đồng nhưng ông T không đồng ý với kết quả thẩm định giá này và yêu cầu Tổng Công ty Bảo hiểm PVI bồi thường theo giá trị bảo hiểm đã mua cho tàu cá ĐNa-90369-TS số tiền là 4.000.000.000 đồng.

- Bị đơn là đại diện theo ủy quyền của Tổng Công ty Bảo hiểm PVI trình bày: Công ty Bảo hiểm PVI Đ là Công ty thành viên, hạch toán phụ thuộc Tổng Công ty Bảo hiểm PVI. Tổng Công ty Bảo hiểm PVI xác nhận ngày 30/12/2019, ông Đào Ngọc Minh T có mua bảo hiểm của Công ty Bảo hiểm PVI Đ thuộc Tổng Công ty Bảo hiểm PVI cho tàu cá ĐNa-90369-TS. Ông Đào Ngọc Minh T đã đóng phí bảo hiểm và Tổng Công ty Bảo hiểm PVI đã cấp Giấy chứng nhận bảo hiểm khai thác hải sản số: 19/13/03/ND67/P000410 có các nội dung như ông T trình bày. Sau khi nhận được thông báo tổn thất của chủ tàu về sự cố chìm tàu cá ĐNa-90369-TS, ngày 06/6/2020, Công ty Bảo hiểm PVI Đ đã chỉ định Công ty TNHH Giám định và tư vấn kỹ thuật DNL tiến hành giám định nguyên nhân và mức độ tổn thất và ngày 30/7/2020, Công ty Bảo hiểm PVI Đ và ông T đã ký biên bản thỏa thuận giải quyết bồi thường tàu cá ĐNa-90369-TS. Sau khi ký biên bản thỏa thuận với chủ tàu, Công ty Bảo hiểm PVI Đ đã phối hợp với Công ty TNHH Giám định và tư vấn kỹ thuật DNL mời Công ty CP Giám định và thẩm định giá Phương Đông (OVI) để thẩm định giá về giá trị của tàu cá tại thời điểm ngay trước khi xảy ra sự cố và ngày 05/10/2020 có kết quả thẩm định giá là 2.300.589.000 đồng nhưng chủ tàu không đồng ý với kết quả thẩm định giá này. Vào ngày 13/11/2020 và ngày 19/11/2020, Công ty Bảo hiểm PVI Đ đã có các buổi làm việc với chủ tàu về giá trị thẩm định giá trên, tuy nhiên chủ tàu không đồng ý và yêu cầu thẩm định giá lại nên Công ty Bảo hiểm PVI Đ đã phối hợp với Công ty TNHH Giám định và tư vấn kỹ thuật DNL yêu cầu Công ty CP giám định và thẩm định giá Phương Đông thẩm định giá lại giá trị của tàu ĐNa-90369- TS tại thời điểm tham gia bảo hiểm có giá trị là 2.400.447.000 đồng. Do đó, Tổng Công ty Bảo hiểm PVI không đồng ý bồi thường số tiền 4.000.000.000 đồng theo yêu cầu của ông T mà chỉ đồng ý bồi thường cho ông T số tiền 2.400.447.000 đồng, vì số tiền bảo hiểm không được cao hơn giá trị thị trường của tài sản được bảo hiểm tại thời điểm giao kết hợp đồng, trong trường hợp xảy ra sự kiện bảo hiểm, doanh nghiệp bảo hiểm chỉ chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại không vượt quá giá thị trường của tài sản được bảo hiểm.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

+ Tổng Công ty Bảo hiểm Bảo Việt trình bày: Tổng Công ty Bảo hiểm Bảo Việt có ký Hợp đồng nguyên tắc đồng bảo hiểm khai thác hải sản số: 01/2014/ĐBH ngày 14/11/2014 với Tổng Công ty Bảo hiểm PVI, Tổng Công ty Cổ phần Bảo hiểm Petrolimex, Tổng Công ty cổ phần Bảo Minh. Căn cứ Hợp đồng nguyên tắc đã ký và Giấy chứng nhận khai thác hải sản số: 19 cho tàu cá ĐNa- 90369 thì Tổng Công ty Bảo hiểm PVI là doanh nghiệp bảo hiểm đứng đầu chủ động thực hiện toàn bộ công tác giám định, giải quyết bồi thường, trả tiền bồi thường, giải quyết khiếu nại. Tổng Công ty Bảo hiểm Bảo Việt tuân thủ mọi quyết định của Tổng Công ty bảo hiểm PVI trong quá trình thực hiện hợp đồng bảo hiểm.

+ Tổng Công ty Cổ phần Bảo Minh trình bày: Tổng Công ty Cổ phần Bảo Minh có thoả thuận đồng bảo hiểm giữa Tổng Công ty Bảo hiểm PVI, Tổng Công ty Cổ phần Bảo hiểm Petrolimex, Tổng Công ty Bảo hiểm Bảo Việt theo Hợp đồng nguyên tắc đồng bảo hiểm khai thác hải sản số: 01/2014/ĐBH ngày 14/11/2014. Đối với Giấy chứng nhận khai thác hải sản số: 19 cho tàu cá Đna - 90369 thì Tổng Công ty Bảo hiểm PVI là bên trực tiếp giao kết và có toàn bộ quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm giải quyết các tranh chấp phát sinh. Tổng Công ty Bảo hiểm PVI sẽ là bên trực tiếp thực hiện giải quyết các quyền và nghĩa vụ liên quan tới thoả thuận đồng bảo hiểm với các doanh nghiệp bảo hiểm khác căn cứ theo Bản án, Quyết định có hiệu lực của cơ quan có thẩm quyền.

+ Tổng Công ty Cổ phần Bảo hiểm Petrolimex đã được Tòa án tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng nhưng vẫn vắng mặt trong suốt quá trình tố tụng.

+ Bà Lê Thị Ngọc L trình bày: Bà và ông T kết hôn năm 2005, trong thời kỳ hôn nhân có tạo lập được tài sản chung là tàu cá ĐNa- 90369-TS. Ngày 04/6/2020, tàu cá bị tai nạn chìm ngoài biển khơi. Do vợ chồng có mua bảo hiểm cho tàu cá nên khi tai nạn xảy ra, ông Tlà chủ tàu cá đã liên hệ với Tổng Công ty Bảo hiểm PVI để giải quyết bồi thường nhưng Công ty Bảo hiểm không bồi thường thỏa đáng nên bà hoàn toàn thống nhất với yêu cầu khởi kiện của ông Tâm.

- Cơ quan tổ chức Giám định:

+ Đại diện theo ủy quyền của Công ty Cổ phần Giám định và thẩm định giá Phương Đông do ông Phạm Duy Long trình bày: Sau khi được Tổng Công ty Bảo hiểm PVI, ông Đào Ngọc Minh T, Công ty TNHH Giám định và tư vấn kỹ thuật DNL thống nhất chỉ định thực hiện giám định về giá thị trường đối với tàu cá ĐNa- 90369-TS tại thời điểm 30/12/2019, Công ty Cổ phần Giám định và thẩm định giá Phương Đông đã thực hiện đúng, đầy đủ quy định của pháp luật về thẩm định giá và xác định giá trị của tàu cá ĐNa- 90369-TS tại thời điểm 30/12/2019 có giá là 2.400.447.000 đồng. Công ty cam kết chịu trách nhiệm về việc xác định giá trị thị trường đối với tàu cá ĐNa- 90369-TS. Đối với những vấn đề khác của vụ án đề nghị Tòa án căn cứ pháp luật để giải quyết.

+ Công ty TNHH Giám định và tư vấn kỹ thuật DNL đã được Tổng Công ty Bảo hiểm PVI thống nhất chỉ định giám định nhưng vẫn vắng mặt trong suốt quá trình giải quyết vụ án.

Với nội dung nói trên, Bản án kinh doanh thương mại sơ thẩm số: 24/2021/KDTM-ST ngày 25/10/2021 của Tòa án nhân dân quận Hải Châu đã xử và quyết định:

Căn cứ vào Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự 2015; Căn cứ Điều 12, 13, 14, 17, 29, 41, 46 Luật Kinh doanh Bảo hiểm năm 2010; Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của ông Đào Ngọc Minh T đối với Tổng Công ty Bảo hiểm PVI về việc “Tranh chấp Hợp đồng Bảo hiểm”. Xử:

1. Buộc Tổng Công ty Bảo hiểm PVI phải bồi thường cho ông Đào Ngọc Minh T số tiền 4.000.000.000 đồng (Bốn tỷ đồng y).

Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật (đối với trường hợp cơ quan thi hành án có quyền chủ động ra quyết định thi hành án) hoặc kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành xong tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 357 Bộ luật Dân sự 2015.

2. Án phí KDTM-ST: Tổng Công ty Bảo hiểm PVI phải chịu 112.000.000 đồng. Hoàn trả cho ông Đào Ngọc Minh T 56.000.000 đồng tiền tạm ứng án phí kinh doanh thương mại đã nộp theo biên lai thu số 0005165 ngày 15/12/2020 tại Chi cục Thi hành án dân sự quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng.

Ngoài ra án sơ thẩm còn thông báo quyền kháng cáo cho các đương sự biết theo quy định của pháp luật.

Sau khi xét xử sơ thẩm, ngày 16/11/2021, bị đơn kháng cáo cho rằng cấp sơ thẩm buộc Tổng Công ty Bảo hiểm PVI bồi thường cho nguyên đơn số tiền 4.000.000.000 đồng là chưa khách quan, không đúng quy định pháp luật, không đúng quy tắc bảo hiểm nên đề nghị xem xét lại bản án theo trình tự phúc thẩm theo hướng chấp nhận kháng cáo của bị đơn.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Tại phần thủ tục hỏi tại phiên toà các đương sự thỏa thuận được hướng giải quyết vụ án, sau khi đại diện Viện kiểm sát phát biểu ý kiến, sau khi thảo luận và nghị án, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Tại phiên tòa phúc thẩm, các đương sự thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án, cụ thể như sau:

- Tổng Công ty Bảo hiểm PVI phải có nghĩa vụ bồi thường cho ông Đào Ngọc Minh T số tiền 3.500.000.000 đồng (Ba tỷ năm trăm triệu đồng). Thời gian giao nhận tiền hạn cuối đến hết ngày 30/3/2022 là trả xong dứt điểm.

- Án phí KDTM-ST: Tổng Công ty Bảo hiểm PVI phải chịu là 102.000.000 đồng (Một trăm lẻ hai triệu đồng). Hoàn trả lại cho ông Đào Ngọc Minh T số tiền tạm ứng án phí 56.000.000 đồng đã nộp theo biên lai thu số 0005165 ngày 15/12/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng.

[2] Xét sự thỏa thuận của các đương sự tại phiên tòa phúc thẩm là tự nguyện, không vi phạm điều cấm của luật và không trái đạo đức xã hội nên Hội đồng xét xử phúc thẩm công nhận sự thỏa thuận của các bên đương sự.

[3] Do các đương sự thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án tại phiên tòa phúc thẩm, nên người kháng cáo là Tổng Công ty Bảo hiểm PVI phải chịu toàn bộ án phí kinh doanh thương mại phúc thẩm, theo quy định tại khoản 5 Điều 29 của Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội Quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

[4] Tại phiên tòa, Kiểm sát viên phát biểu ý kiến của Viện kiểm sát về việc tuân theo pháp luật trong quá trình giải quyết vụ án dân sự ở giai đoạn phúc thẩm và đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ vào Điều 300, khoản 2 Điều 308 của Bộ luật Tố tụng dân sự, sửa bản án sơ thẩm theo hướng công nhận sự thỏa thuận của các bên đương sự tại phiên tòa.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ Điều 300, khoản 2 Điều 308 Bộ luật Tố tụng dân sự; Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Công nhận sự thỏa thuận của các đương sự tại phiên tòa; Sửa Bản án kinh doanh thương mại sơ thẩm số: 24/2021/KDTM-ST ngày 25 tháng 10 năm 2021 của Tòa án nhân dân quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng về việc „‟tranh chấp Hợp đồng Bảo hiểm‟‟ như sau:

Tổng Công ty Bảo hiểm PVI phải có nghĩa vụ bồi thường cho ông Đào Ngọc Minh T số tiền 3.500.000.000 đồng (Ba tỷ năm trăm triệu đồng). Thời gian giao nhận tiền hạn cuối đến hết ngày 30/3/2022 là trả xong dứt điểm.

Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án cho đến khi thi hành án xong, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân sự.

2. Án phí KDTM-ST: Tổng Công ty Bảo hiểm PVI phải chịu là 102.000.000 đồng (Một trăm lẻ hai triệu đồng). Hoàn trả lại cho ông Đào Ngọc Minh T số tiền tạm ứng án phí 56.000.000 đồng đã nộp theo biên lai thu số 0005165 ngày 15/12/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng.

3. Án phí KDTM-PT: Tổng Công ty Bảo hiểm PVI phải chịu là 2.000.000 đồng, nhưng được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu số 0000476 ngày 15/11/2021 của Chi cục Thi hành án dân sự quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

4. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

143
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp hợp đồng bảo hiểm số 06/2022/KDTM-PT

Số hiệu:06/2022/KDTM-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Đà Nẵng
Lĩnh vực:Kinh tế
Ngày ban hành: 15/03/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về