TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN GIỒNG RIỀNG, TỈNH KIÊN GIANG
BẢN ÁN 99/2021/HNGĐ-ST NGÀY 15/10/2021 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH
Ngày 15 tháng 10 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Giồng Riềng, tỉnh Kiên Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 193/2021/TLST - HNGĐ ngày 28 tháng 4 năm 2021 về “Tranh chấp hôn nhân và gia đình - Ly hôn, nuôi con khi ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 171/2021/QĐXXST - HNGĐ ngày 14 tháng 9 năm 2021, giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Chị Lê Thị H, sinh năm: 1985 (có đơn đề nghị vắng mặt).
Địa chỉ: Thôn N, xã D, huyện S, tỉnh Thanh Hóa.
2. Bị đơn: Anh La Thanh P, sinh năm: 1982 (vắng mặt).
Địa chỉ: Ấp A, xã B, huyện GR, tỉnh Kiên Giang.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo đơn khởi kiện ngày 07/10/2020 và quá trình giải quyết vụ án, chị Lê Thị H là nguyên đơn trình bày:
Hôn nhân giữa chị và anh P do hai bên tự tìm hiểu và tự nguyện kết hôn năm 2009, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã B, huyện GR, tỉnh Kiên Giang. Vợ chồng chung sống hạnh phúc được hơn một năm thì phát sinh mâu thuẫn trầm trọng do bất đồng quan điểm sống, không hợp tính tình. Tháng 10/2011, chị và anh P tự nguyện chấm dứt quan hệ hôn nhân và sống ly thân với nhau cho đến nay, không có liên hệ với nhau để Hn gắn tình cảm vợ chồng.
Quá trình chung sống chị và anh P có một người con là cháu La Sỹ A1, sinh ngày 17/12/2009, do chị H trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng.
Chị H xác định không còn tình cảm với anh P nên cương quyết yêu cầu được ly hôn; về con chung: Cháu La Sỹ A1, sinh ngày 17/12/2009, chị H yêu cầu được quyền chăm sóc, nuôi dưỡng không yêu cầu anh P cấp dưỡng nuôi con; về tài sản và nợ chung: Chị H không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Anh La Thanh P là bị đơn: Không nộp văn bản thể hiện ý kiến của mình đối với yêu cầu của chị H, không cung cấp tài liệu, chứng cứ để Tòa án xem xét.
Kiểm sát viên phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký và của Người tham gia tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án; ý kiến về việc giải quyết vụ án:
Thẩm phán xác định quan hệ tranh chấp, tư cách đương sự, thẩm quyền giải quyết vụ án, xem xét việc thụ lý vụ án, cấp tống đạt, thông báo các văn bản tố tụng, tiến Hnh thu thập chứng cứ và thời hạn gửi hồ sơ cho Viện kiểm sát đúng theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.
Việc tuân theo pháp luật của Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và của nguyên đơn đã thực hiện đúng theo các quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự. Đối với anh P chưa thực hiện đúng về quyền và nghĩa vụ của mình theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.
Về việc giải quyết vụ án: Chị H và anh P tự nguyện kết hôn 2009, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã B, huyện GR nên hôn nhân của anh, chị là hợp pháp. Chị H xác định thời gian đầu chung sống hạnh phúc, sau đó phát sinh mâu thuẫn do không hợp tính tình, bất đồng quan điểm sống, tháng 10/2011 chị và anh P tự chấm dứt quan hệ hôn nhân cho đến nay không còn liên hệ với nhau. Xét thấy, hôn nhân của chị H và anh P đã lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Cho nên, việc chị H yêu cầu được ly hôn với anh P là có cơ sở, anh P không có ý kiến phản đối, đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ khoản 1 Điều 56 của Luật hôn nhân và gia đình chấp nhận yêu cầu ly hôn của chị H đối với anh P.
Về con: Cháu La Sỹ A1, sinh ngày 17/12/2009 đang được chị H chăm sóc, nuôi dưỡng ổn định đảm bảo sự phát triển về mọi mặt được chính quyền địa phương nơi chị H cư trú xác nhận. Mặt khác, cháu A1 có nguyện vọng chung sống với mẹ là chị H. Căn cứ Điều 81 của Luật hôn nhân và gia đình, đề nghị chấp nhận giao cháu A1 cho chị H được quyền nuôi dưỡng. Về cấp dưỡng nuôi con; về tài sản và nợ chung chị H không yêu cầu, đề nghị không xét.
Về án phí: Đề nghị buộc chị H phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm là 300.000 đồng.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa, kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1]. Về tố tụng: Chị Lê Thị H yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn, nuôi con với anh La Thanh P, đây là tranh chấp về ly hôn, nuôi con khi ly hôn theo quy định tại khoản 1 Điều 28 của Bộ luật Tố tụng dân sự.
Anh La Thanh P là bị đơn cư trú tại huyện GR, tỉnh Kiên Giang. Căn cứ khoản 1 Điều 35 và khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự thì vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Giồng Riềng, tỉnh Kiên Giang.
Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng cho anh P. Tuy nhiên, anh P không đến Tòa án để tham gia phiên họp, hòa giải, phiên tòa là không thực hiện đúng về quyền, nghĩa vụ của mình theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự. Do đó, Tòa án căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ do chị H giao nộp và do Tòa án thu thập để giải quyết vụ án theo quy định tại khoản 1 Điều 96 của Bộ luật Tố tụng dân sự. Chị H có đơn đề nghị xét xử vắng mặt; anh P đã được Tòa án triệu tập hợp lệ đến tham gia phiên tòa lần thứ hai nhưng vắng mặt không lý do, không vì sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan. Căn cứ vào điểm a, b khoản 1 Điều 238 của Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án xét xử vắng mặt chị H và anh P.
[2]. Về nội dung vụ án: Chị Lê Thị H và anh La Thanh P kết hôn trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn và được Ủy ban nhân dân xã B, huyện GR, tỉnh Kiên Giang cấp giấy chứng nhận kết hôn số 06 ngày 30/01/2009 nên quan hệ hôn nhân giữa anh, chị là hợp pháp.
Quá trình giải quyết vụ án, chị H xác định vợ chồng chung sống hạnh phúc hơn một năm thì phát sinh mâu thuẫn trầm trọng do không hợp tính tình, bất đồng quan điểm sống. Hậu quả từ tháng 10/2011, chị H và anh P tự chấm dứt quan hệ vợ chồng không còn quý trọng, chăm sóc, giúp đỡ nhau cho đến nay, không có liên hệ với nhau để Hn gắn tình cảm vợ chồng. Do đó, chị H và anh P đều vi phạm nghiêm trọng về quyền, nghĩa vụ của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân.
Kết quả Tòa án xác minh về tình trạng cư trú và nguyên nhân phát sinh mâu thuẫn giữa chị H và anh P như sau:
Mẹ ruột anh P cho biết: Anh P ở chung với bà tại ấp A, xã B, huyện GR nhưng anh P đi làm thuê không thường xuyên có mặt tại nơi cư trú, hằng năm anh P đều trở về nơi cư trú, lần gần nhất anh P trở về là khoảng tháng 02/2021, khi về nhà anh P có dẫn theo vợ sau và một người con khoảng 04 tuổi. Bà không biết được nguyên nhân phát sinh mâu thuẫn giữa chị H và anh P.
Phó ấp A, xã B, huyện GR cho biết: Anh La Thanh P có đăng ký hộ khẩu và nơi cư trú tại ấp A, xã B, huyện GR. Tuy nhiên, anh P không thường xuyên có mặt tại nơi cư trú, anh P đi đâu và làm gì thì Ban lãnh đạo Ấp không biết được do không trình báo. Hằng năm anh P đều có về nơi cư trú ở vài ngày lại tiếp tục đi, lần gần nhất anh P trở về nơi cư trú là tết nguyên đán năm 2021 (tháng 02/2021). Về nguyên nhân phát sinh mâu thuẫn giữa chị H và anh P thì Ban lãnh đạo ấp không biết được.
Vì vậy, Tòa án tiến Hnh thủ tục hòa giải để giải quyết mâu thuẫn, tạo điều kiện hàn gắn tình cảm vợ chồng cho chị H và anh P nhưng không đạt kết quả do anh P vắng mặt, chị H xác định không còn tình cảm và không thể tiếp tục chung sống với anh P nên cương quyết yêu cầu ly hôn, điều này cho thấy tình cảm vợ chồng của chị H và anh P đã phai nhạt, mâu thuẫn vợ chồng đã đến mức trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Vì vậy, chị H yêu cầu ly hôn với anh P là có căn cứ và phù hợp theo quy định tại khoản 1 Điều 56 của Luật hôn nhân và gia đình nên Hội đồng xét xử chấp nhận.
Về con chung: Chị H và anh P có một người con chung là cháu La Sỹ A1, sinh ngày 17/12/2009. Xét yêu cầu nuôi con khi ly hôn của chị H, Hội đồng xét xử thấy rằng: Cháu A1 từ trước đến nay do chị H trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng ổn định đảm bảo sự phát triển về mọi mặt và chị H đủ điều kiện nuôi con được Ban lãnh đạo Thôn N, xã D và Ủy ban nhân dân xã D, huyện S, tỉnh Thanh Hóa xác nhận. Mặt khác, cháu A1 (trên 07 tuổi) có nguyện vọng muốn chung sống với mẹ là chị H, anh P không có ý kiến phản đối yêu cầu nuôi con.
Do đó, căn cứ Điều 81 của Luật hôn nhân và gia đình, Hội đồng xét xử chấp nhận cho chị H được quyền tiếp tục chăm sóc, nuôi dưỡng cháu A1, anh P không phải cấp dưỡng nuôi con do chị H không yêu cầu. Trừ trường hợp có yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con và cấp dưỡng nuôi con theo qui định của pháp luật.
Anh P được quyền đến thăm nom, chăm sóc và giáo dục con chung không ai được quyền cản trở.
Về tài sản và nợ chung: Chị H không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không xét.
[3]. Về án phí: Căn cứ khoản 4 Điều 147 của Bộ luật Tố tụng dân sự; khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Chị H phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm là 300.000 đồng.
[4]. Đề nghị của đại diện Viện kiểm sát về việc giải quyết vụ án là có căn cứ nên Hội đồng xét xử chấp nhận.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào: Khoản 1 Điều 28, khoản 1 Điều 35, khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 147, khoản 1 Điều 96, điểm a, b khoản 1 Điều 238, Điều 266, Điều 271 và Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự;
Khoản 1 Điều 56, Điều 57, Điều 81, Điều 82, Điều 83 và Điều 84 của Luật hôn nhân và gia đình;
Khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Tuyên xử:
1. Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu ly hôn của chị Lê Thị H đối với anh La Thanh P.
2. Về con: Chị Lê Thị H được quyền tiếp tục chăm sóc, nuôi dưỡng cháu La Sỹ A1, sinh ngày 17/12/2009. Anh La Thanh P không phải cấp dưỡng nuôi con do chị H không yêu cầu. Trừ trường hợp có yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con và cấp dưỡng nuôi con theo qui định của pháp luật.
Anh P được quyền đến thăm nom, chăm sóc và giáo dục con chung không ai được quyền cản trở.
3. Về án phí: Chị Lê Thị H phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) nhưng được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0002390 ngày 27/4/2021 của Chi cục Thi Hành án dân sự huyện GR, tỉnh Kiên Giang, chị H đã nộp đủ án phí sơ thẩm.
4. Về quyền kháng cáo: Chị Lê Thị H và anh La Thanh P có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn luật định là 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được tống đạt hợp lệ theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.
Bản án về tranh chấp hôn nhân và gia đình số 99/2021/HNGĐ-ST
Số hiệu: | 99/2021/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Giồng Riềng - Kiên Giang |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 15/10/2021 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về