Bản án về tranh chấp hôn nhân và gia đình số 88/2023/HNGĐ-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỈNH THÁI BÌNH

BẢN ÁN 88/2023/HNGĐ-ST NGÀY 28/09/2023 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH

Ngày 28 tháng 9 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Th xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 56/2023/TLST-HNGĐ ngày 04 tháng 5 năm 2023 về tranh chấp Hôn nhân và gia đình.

Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm số: 78/2023/QĐXXST-HNGĐ ngày 10 tháng 8 năm 2023 và Quyết định hoãn phiên tòa số: 43/2023/QĐST-HNGĐ ngày 31 tháng 8 năm 2023 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Đặng Thị H, sinh năm 1992; Địa chỉ: Thôn L, xã T, huyện K, tỉnh Th. (Có văn bản đề nghị xét xử vắng mặt)

- Bị đơn: Anh Bùi Công D, sinh năm 1987; Hộ khẩu thường trú: Thôn L, xã T, huyện K, tỉnh Th. Hiện đang cư trú và lao động tại Hàn Quốc.(Vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

 * Tại đơn khởi kiện, bản tự khai và đơn đề nghị giải quyết, xét xử vắng mặt, nguyên đơn chị Đặng Thị H trình bày:

- Về quan hệ hôn nhân: Chị và anh Bùi Công D tự nguyện đăng ký kết hôn ngày 02/4/2013 tại Ủy ban nhân dân xã T, huyện K, tỉnh Th. Trong quá trình đầu chung sống rất hạnh phúc và được một thời gian thì vợ chồng chị phát sinh mâu thuẫn do anh D đi xuất khẩu lao động tại Hàn Quốc nên vợ chồng sống xa nhau, tính cách khác nhau, không có sự thấu hiểu, chia sẻ trong tình cảm, công việc, kinh tế vợ chồng riêng biệt không có sự gắn kết, nghi ngờ sự chung thủy của nhau, không tìm được tiếng nói chung. Anh chị đã ly thân nhiều năm nay, không thể tiếp tục chung sống cùng nhau nữa. Nay chị đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn anh D.

- Về con chung: Anh chị có 02 con chung là Bùi Trọng N, sinh ngày 25/10/2014 và Bùi Minh N1, sinh ngày 05/12/2017, hiện đang ở với gia đình anh D. Do con chung đang sinh sống, học tập và ở ổn định với gia đình anh D nên chị để con chung tiếp tục sinh sống cùng gia đình anh D. Chị sẽ cấp dưỡng nuôi con cùng anh D mỗi con 1.000.000 (một triệu) đồng/tháng cho đến khi con chung đủ 18 tuổi.

- Về tài sản chung và nợ chung: Chị không yêu cầu Tòa án giải quyết.

* Quá trình giải quyết vụ án, anh Bùi Công D không có văn bản trình bày quan điểm về việc giải quyết vụ án. Tại Biên bản làm việc ngày 06/7/2023, ông Bùi Quốc H1 (bố đẻ của anh D) cung cấp:

Khi nhận được Thông báo thụ lý vụ án của Tòa án gửi qua đường bưu điện, ông đã gửi ngay cho anh D qua mạng xã hội do anh D đang lao động ở Hàn Quốc. Anh D đã biết việc Tòa án đang thụ lý, giải quyết vụ án. Quan điểm của anh D là muốn vợ chồng đoàn tụ, nuôi dạy con cái và đang liên hệ để thuyết phục chị H đoàn tụ. Anh D xác nhận vợ chồng tự nguyện tìm hiểu và đăng ký kết hôn ngày 02/4/2013 tại UBND xã T, K. Anh chị có con chung là Bùi Trọng N, sinh ngày 25/10/2014 và Bùi Minh N1, sinh ngày 05/12/2017. Anh có nguyện vọng được nuôi cả hai con, về mức cấp dưỡng thì đề nghị Tòa án giải quyết theo pháp luật, anh D không yêu cầu giải quyết về tài sản chung và nợ chung.

Quá trình anh chị chung sống, ông thấy anh chị cũng có mâu thuẫn nhưng ông không nắm được cụ thể. Khi hỏi chị H thì thấy chị H bảo không hợp nhau và muốn ly hôn, chị H đã không còn sống cùng ông bà khoảng 07 tháng nay. Ông đề nghị Tòa án giải quyết theo pháp luật. Ông vẫn thường xuyên liên hệ với anh D qua mạng xã hội nên đề nghị Tòa án gửi văn bản cho ông qua bưu điện, ông cam kết gửi ngay cho anh D. Hiện địa chỉ của anh D không cố định nên anh D không cung cấp, do đó ông không cung cấp được địa chỉ của anh D tại Hàn Quốc cho Tòa án.

* Tại Biên bản xác minh ngày 06/7/2023, Ủy ban nhân dân xã T, huyện K cung cấp:

Anh D và chị H tự nguyện tìm hiểu, đăng ký kết hôn ngày 02/4/2013 tại Ủy ban nhân dân xã T, huyện K, tỉnh Th. Sau khi kết hôn, anh chị chung sống tại địa phương, sau đó anh D đi lao động ở nước ngoài, địa chỉ cụ thể ở đâu địa phương không rõ vì anh D không báo cáo gì địa phương. Anh chị xảy ra mâu thuẫn cụ thể như thế nào thì địa phương không rõ vì không nhờ địa phương can thiệp, hòa giải. Nay mâu thuẫn đỉnh điểm dẫn đến việc chị H xin ly hôn, đề nghị Tòa án căn cứ vào quy định của pháp luật để giải quyết.

Anh chị có 02 con chung là Bùi Trọng N, sinh ngày 25/10/2014 và Bùi Minh N1, sinh ngày 05/12/2017, hiện đang ở với gia đình anh D. Hiện hai cháu N và NI đang sinh sống, học tập ổn định tại địa phương, sức khỏe tốt. Đề nghị Tòa án xem xét quyền lợi và sự phát triển tốt nhất cho các cháu khi giải quyết việc giao con sau ly hôn.

Địa phương không nắm được thông tin gì về tài sản chung và nợ chung của anh D chị H do không thấy gia đình và người dân địa phương phản ánh gì.

* Tại Công văn số 353/PA08 ngày 13/4/2023, Phòng quản lý xuất nhập cảnh Công an tỉnh T cung cấp: Đương sự Bùi Công D xuất cảnh ngày 23/4/2018 qua cửa khẩu sân bay quốc tế C, sau đó không thấy thông tin nhập cảnh.

* Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Th phát hiểu quan điểm: Việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, của Hội đồng xét xử và việc chấp hành pháp luật của nguyên đơn đều tuân thủ theo quy định của pháp luật. Về nội dung, có đủ căn cứ để chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu đã thu thập có trong hồ sơ vụ án. Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng: Anh Bùi Công D đăng ký hộ khẩu thường trú tại xã T, huyện K, tỉnh Th, đã xuất cảnh khỏi Việt Nam, được Tòa án tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng qua gia đình nhưng cố tình không cung cấp địa chỉ hiện nay và vắng mặt tại phiên tòa lần thứ hai không có lý do; chị H có văn bản đề nghị xét xử vắng mặt, do đó Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt chị H, anh D theo quy định của pháp luật.

[2] Xét yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn:

[2.1] Về quan hệ hôn nhân: Việc kết hôn giữa chị Đặng Thị H và anh Bùi Công D là hợp pháp. Quá trình chung sống, anh chị đều thừa nhận có nhiều mâu thuẫn, đã ly thân nhiều năm nay, điều này đã được gia đình anh D xác nhận. Anh D biết được Tòa án thụ lý và giải quyết việc ly hôn của mình, muốn đoàn tụ nhưng không gửi văn bản trình bày gì, không đưa ra giải pháp để hòa giải, đoàn tụ, thuyết phục chị H rút đơn; chị H vẫn cương quyết xin ly hôn. Vì vậy, Hội đồng xét xử xét thấy mâu thuẫn giữa anh chị đã trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được, cần chấp nhận cho chị H ly hôn anh D là phù hợp với quy định tại Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình.

[2.2] Về con chung: Anh chị có 02 con chung là Bùi Trọng N, sinh ngày 25/10/2014 và Bùi Minh N1, sinh ngày 05/12/2017. Hiện con chung đang ở cùng gia đình anh D. Anh D có nguyện vọng được trực tiếp nuôi con, chị H cũng đồng ý nhường quyền nuôi con cho anh D nên Hội đồng xét xử xét thấy cần giao con chung cho anh D trực tiếp nuôi dưỡng. Anh D không yêu cầu chị H cấp dưỡng nhưng chị H tự nguyện đóng tiền cấp dưỡng nuôi con là 1.000.000 đồng/con/tháng. Xét đề nghị của anh D và chị H là tự nguyện và hợp pháp, bảo đảm các quyền, lợi ích và phù hợp với nguyện vọng của con chung nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[2.3] Về tài sản chung và nợ chung: Chị H không yêu cầu Tòa án giải quyết, gia đình anh D cung cấp anh D cũng không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Tòa án không giải quyết về tài sản.

[2.4] Về án phí: Chị H phải chịu toàn bộ án phí ly hôn sơ thẩm và án phí cấp dưỡng nuôi con theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 56; các Điều 81, 82, 83 và 84 Luật Hôn nhân và gia đình; điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 1 Điều 228, Điều 273, Điều 147, khoản 2 Điều 479 của Bộ luật tố tụng dân sự; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý án phí, lệ phí Tòa án.

1. Về quan hệ hôn nhân: Xử cho chị Đặng Thị H được ly hôn anh Bùi Công D.

2. Về con chung: Xử giao cho anh Bùi Công D trực tiếp nuôi con chung Bùi Trọng N, sinh ngày 25/10/2014 và Bùi Minh N1, sinh ngày 05/12/2017. Chị H cấp dưỡng nuôi con 1.000.000 (một triệu) đồng/con/tháng từ tháng 9/2023 đến khi từng con đủ 18 tuổi. Chị H có quyền thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung, hai bên có quyền yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con và mức cấp dưỡng theo quy định.

3. Về tài sản chung và nợ chung: Không đặt ra giải quyết.

4. Về án phí: Chị Đặng Thị H phải chịu 300.000 đồng án phí ly hôn sơ thẩm và 300.000 đồng án phí cấp dưỡng nuôi con. Đối trừ với số tiền 300.000 đồng chị H2 nộp tạm ứng án phí tại biên lai số 0005655 ngày 04/5/2023 ở Cục Thi hành án dân sự tỉnh Th, chị H còn phải nộp số tiền 300.000 (ba trăm nghìn) đồng.

5. Về quyền kháng cáo: Chị Đặng Thị H có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày bản án được tống đạt hợp lệ hoặc ngày bản án được niêm yết hợp lệ theo quy định của pháp luật. Anh Bùi Công D có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 01 tháng kể từ ngày bản án được tống đạt hợp lệ hoặc ngày bản án được niêm yết hợp lệ theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

16
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp hôn nhân và gia đình số 88/2023/HNGĐ-ST

Số hiệu:88/2023/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thái Bình
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 28/09/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về