TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ V, TỈNH NGHỆ AN
BẢN ÁN 79/2021/HNGĐ-ST NGÀY 27/12/2021 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH
Hôm nay, ngày 27 tháng 12 năm 2021 tại trụ sở Toà án nhân dân thành phố V mở phiên toà công khai xét xử sơ thẩm vụ án dân sự thụ lý số 302/2021/TLST- HNGĐ ngày 22 tháng 10 năm 2021 về “tranh chấp Hôn nhân và gia đình” theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 111/2021/QĐXXST-HNGĐ ngày 09 tháng 12 năm 2021 giữa các đương sự:
Nguyên đơn: Anh Nguyễn Sỹ H1 - sinh năm 1981.
Nơi ĐKNKTT: Xóm 13, xã HL, thành phố V, tỉnh Nghệ An. Có mặt tại phiên tòa.
Bị đơn: Chị Phạm Thị H2 - sinh năm 1984.
Nơi ĐKNKTT: Xóm 13, xã HL, thành phố V, tỉnh Nghệ An. Vắng mặt tại phiên tòa, có đơn xin xét xử vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo đơn xin ly hôn ngày 15/10/2021, bản tự khai và tại phiên tòa anh Nguyễn Sỹ H1 trình bày thì: Anh và chị Phạm Thị H2 đến với nhau trên cơ sở tình yêu tự nguyện, có tìm hiểu và có đăng ký kết hôn vào ngày 21/8/2008 tại UBND xã Đ, huyện A, tỉnh Nghệ An. Sau khi kết hôn vợ chồng sống hạnh phúc được một thời gian thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn là do vợ chồng bất đồng quan điểm sống, không có tiếng nói chung, vợ chồng thiếu sự tôn trọng lẫn nhau dẫn đến thường xuyên xảy ra cãi vã, tình cảm vợ chồng mất mát, phai nhạt dần. Đến khoảng tháng 9/2018 do mâu thuẫn căng thẳng nên chị H2 đi làm ăn xa. Vợ chồng không quan tâm, chăm sóc và sống ly thân nhau từ đó cho đến nay. Nay nhận thấy mâu thuẫn vợ chồng đã trầm trọng, thực tế vợ chồng anh đã sống ly thân nhau từ mấy năm nay, tình cảm vợ chồng không còn nên anh xin ly hôn chị H2 để ổn định cuộc sống.
Về con chung: Vợ chồng có 02 con chung là Nguyễn Chí L, sinh ngày 22/9/2008 và Nguyễn Phạm Thiên D, sinh ngày 12/10/2012. Ly hôn anh có nguyện vọng giao 02 con chung là cháu Nguyễn Chí L và Nguyễn Phạm Thiên D cho chị H2 trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng đến khi đủ tuổi trưởng thành. Anh có nguyện vọng cấp dưỡng nuôi hai con chung cùng chị H2 mỗi tháng 8.000.000 đồng/tháng/02 con (mỗi con số tiền 4.000.000 đồng/con/tháng) kể từ tháng 12/2021 cho đến khi con đủ tuổi trưởng thành.
Về tài sản: Vợ chồng tự thỏa thuận về tài sản, anh không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Tại bản tự khai và đơn xin vắng mặt có xác nhận của Chính quyền địa phương chị Phạm Thị H2 thừa nhận thời gian, điều kiện kết hôn và mâu thuẫn vợ chồng đúng như anh H1 trình bày. Chị H2 xác nhận mâu thuẫn vợ chồng ngày càng căng thẳng, tình cảm vợ chồng thực sự không còn nên chị đồng ý ly hôn theo yêu cầu của anh H1.
Về con chung: Theo chị H2 khai vợ chồng có 02 con chung là Nguyễn Chí L, sinh ngày 22/9/2008 và Nguyễn Phạm Thiên D, sinh ngày 12/10/2012. Ly hôn chị có nguyện vọng được trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng cả 02 con chung là Nguyễn Chí L và Nguyễn Phạm Thiên D đến khi các con đủ tuổi trưởng thành. Về mức cấp dưỡng nuôi con chung như nguyện vọng của anh H1 thì chị cũng nhất trí.
Về tài sản: Theo chị H2 khai vợ chồng tự thỏa thuận về tài sản, chị không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Trong quá trình giải quyết vụ án do tình hình dịch bệnh covid 19 Dễn ra phức tạp, điều kiện hiện tại hoàn cảnh đi lại khó khăn nên chị H2 không có điều kiện về để giải quyết việc ly hôn. Vì vậy chị H2 đề nghị Tòa án tiến hành đưa vụ án ra xét xử vắng mặt chị.
Tại phiên tòa đại Dện Viện kiểm sát Thành phố V phát biểu ý kiến: Quá trình thụ lý và giải quyết vụ án, thẩm phán đã tuân thủ đúng các quy định tại điều 48 BLTTDS; việc thụ lý và giải quyết đúng vụ án đúng quy định tại điều 28, điều 35 BLTTDS; xác định đúng tư cách đương sự, thời hạn chuẩn bị xét xử đảm bảo đúng quy định. Hội đồng xét xử cũng đã tuân thủ đúng các quy định của BLTTDS.
- Ý kiến về việc giải quyết vụ án: Căn cứ vào điều 207 Bộ luật tố tụng dân sự, điều 51, 53, 56, 81, 82, 83 Luật hôn nhân và gia đình chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, xử cho anh H1 được ly hôn với chị H2. Về con: Vợ chồng có 02 con chung là Nguyễn Chí L, sinh ngày 22/9/2008 và Nguyễn Phạm Thiên D, sinh ngày 12/10/2012. Giao cháu L và cháu D cho chị H2 trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng, trưởng thành. Anh H1 có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi hai con chung cho chị H2 mỗi tháng số tiền 8.000.000 đồng/02 con/01 tháng (mỗi con số tiền 4.000.000 đồng/01con/01 tháng) kể từ tháng 12/2021 đến khi các con đủ tuổi trưởng thành . Về tài sản: Vợ chồng tự thỏa thuận không yêu cầu Tòa án giải quyết nên miễn xét. Về án phí: Buộc anh H1 pH1 chịu án phí ly hôn và án phí cấp dưỡng theo quy định của pháp luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có tại hồ sơ vụ án; lời trình bày của đương sự được thẩm tra tại phiên toà. Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về thủ tục tố tụng: Đây là vụ án về tranh chấp hôn nhân và gia đình, bị đơn là chị Phạm Thị H2 có đăng ký hộ khẩu thường trú tại xóm Mỹ Trung, xã HL, thành phố V, tỉnh Nghệ An nên Tòa án nhân dân thành phố V thụ lý và giải quyết vụ án là đúng thẩm quyền theo quy định tại khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự.
Do điều kiện hiện tại chị Phạm Thị H2 đang làm ăn xa nên không thể tham gia phiên tòa, chị H2 đã có đơn xin xét xử vắng mặt, vì vậy Tòa án đưa vụ án ra xét xử vắng mặt bị đơn là đúng quy định tại điều 228 BLTTDS.
[2] Về nội dung:
Anh Nguyễn Sỹ H1 và chị Phạm Thị H2 đến với nhau trên cơ sở tình yêu tự nguyện, có tìm hiểu và có đăng ký kết hôn vào ngày 21/8/2008 tại UBND xã Đ, huyện A, tỉnh Nghệ An nên hợp pháp. Sau khi kết hôn vợ chồng sống hạnh phúc được một thời gian thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn là do vợ chồng bất đồng quan điểm sống, không có tiếng nói chung, giữa vợ chồng thiếu sự tôn trọng lẫn nhau dẫn đến thường xuyên xảy ra cãi vã. Do mâu thuẫn căng thẳng nên vợ chồng đã ly thân nhau từ năm 2018 đến nay. Tại phiên tòa, anh H1 nhận thấy tình cảm vợ chồng thật sự không còn nên vẫn giữ nguyên quan điểm xin ly hôn. Tòa án đã kiên trì phân tích hậu quả của việc ly hôn nhưng anh H1 vẫn kiên quyết xin ly hôn. Chị H2 tuy vắng mặt nhưng tại bản tự khai và đơn xin xét xử vắng mặt chị cũng xác nhận tình cảm vợ chồng không còn, mâu thuẫn vợ chồng ngày càng trầm trọng, thực tế vợ chồng đã sống ly thân nên chị cũng đồng ý ly hôn, vì vậy cần cho anh H1 ly hôn với chị H2 là phù hợp.
Về con chung: Vợ chồng có 02 con chung là Nguyễn Chí L, sinh ngày 22/9/2008 và Nguyễn Phạm Thiên D, sinh ngày 12/10/2012, hiện tại các con đang đang ở với chị H2. Chị H2 mặc dù vắng mặt nhưng tại bản tự khai chị có nguyện vọng trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng cả hai con chung đến khi đủ tuổi trưởng thành và yêu cầu anh H1 pH1 cấp dưỡng nuôi con chung cùng chị. Các con đều có đơn trình bày nguyện vọng xin được ở với mẹ. Tại phiên tòa anh H1 cũng nhất trí giao hai con chung là Nguyễn Chí L và Nguyễn Phạm Thiên D cho chị H2 trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng. Xét việc giao con chưa thành niên cho ai nuôi dưỡng là cần căn cứ điều kiện phát triển về mọi mặt, trên cơ sở nguyện vọng của hai con và ý kiến của các đương sự. Vì vậy, giao hai con chung là Nguyễn Chí L, sinh ngày 22/9/2008 và Nguyễn Phạm Thiên D, sinh ngày 12/10/2012 cho chị H2 nuôi dưỡng là phù hợp. Anh H1 có nguyện vọng được cấp dưỡng nuôi hai con chung cùng chị H2 mỗi tháng số tiền 8.000.000 đồng/tháng/02 con (mỗi con 4.000.000 đồng/ tháng/con), chị H2 cũng nhất trí với mức cấp dưỡng như nguyện vọng của anh H1. Xét nguyện vọng cấp dưỡng nuôi con chung và mức cấp dưỡng của anh H1 là chính đáng và phù hợp nên cần chấp nhận.
Anh H1 có quyền, nghĩa vụ đi lại, thăm nom, chăm sóc con chung, không ai được ngăn cấm.
Về tài sản: Anh H1 không yêu cầu Tòa án giải quyết, chị H2 vắng mặt nhưng tại bản tự khai và đơn xin vắng mặt chị không yêu cầu Tòa án giải quyết nên hội đồng xét xử không xem xét.
[3] Về án phí: Anh H1 phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm và án phí cấp dưỡng theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ các điều 56, 58, 81, 82, 83 Luật hôn nhân và gia đình; khoản 1 Điều 28;
điều 39; điều 227; điều 228; khoản 4 điều 147; điều 271 BLTTDS; khoản 5 điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 về án phí và lệ phí Tòa án.
Xử :
- Về tình cảm: Cho anh Nguyễn Sỹ H1 được ly hôn chị Phạm Thị H2.
- Về con: Giao cho chị Phạm Thị H2 được trực tiếp nuôi dưỡng hai con chung là cháu Nguyễn Chí L, sinh ngày 22/9/2008 và Nguyễn Phạm Thiên D, sinh ngày 12/10/2012 cho đến khi các cháu đủ tuổi trưởng thành. Anh Nguyễn Sỹ H1 có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi hai con chung cho chị H2 mỗi tháng là 8.000.000 đồng/1 tháng/02 con (4.000.000 đồng/01 tháng/01 con) kể từ tháng 12/2021 cho đến khi các cháu đủ tuổi trưởng thành.
Anh H1 có quyền, nghĩa vụ đi lại, thăm nom, chăm sóc con chung không ai được ngăn cấm.
- Về án phí: Anh Nguyễn Sỹ H1 phải chịu 300.000 đồng án phí ly hôn sơ thẩm và 300.000 đồng án phí cấp dưỡng nhưng được khấu trừ 300.000 đồng dự phí đã nạp tại Chi cục thi hành án dân sự thành phố V theo biên lai số 0009620 ngày 19 tháng 10 năm 2021.
Kể từ ngày chị H2 làm đơn yêu cầu thi hành án cho đến khi thi hành án xong tất cả các khoản tiền, nếu anh H1 không chịu thi hành thì hàng tháng anh H1 còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 điều 468 Bộ luật dân sự năm 2015.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền thi hành án dân sự, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6,7 và 9 Luật thi hành án dân sự. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 của luật thi hành án dân sự.
Anh H1 có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Chị H2 có quyền làm đơn kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc từ ngày niêm yết bản án./
Bản án về tranh chấp hôn nhân và gia đình số 79/2021/HNGĐ-ST
Số hiệu: | 79/2021/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Vinh - Nghệ An |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 27/12/2021 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về