Bản án về tranh chấp hôn nhân và gia đình số 66/2022/HNGĐ-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN N, TỈNH NAM ĐỊNH

BẢN ÁN 66/2022/HNGĐ-ST NGÀY 19/05/2022 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH

Ngày 19/5/2022 tại trụ sở Toà án nhân dân huyện N mở phiên toà xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 27/2022/TLST - HNGĐ ngày 18 tháng 02 năm 2022 Về vụ án kiện xin ly hôn theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 29/2022/QĐXXST - DS ngày 22/4/2022 và quyết định hoãn phiên toà số 17/2022/QDST – HNGĐ ngày 06/5/2022 giữa:

* Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị Hoàng Y - Sinh năm: 1974;

Địa chỉ: Tổ dân phố 3, thị trấn L, huyện N, tỉnh Nam Định.

* Bị đơn: Anh Nguyễn Trọng C - Sinh năm: 1970;

Địa chỉ: Tổ dân phố 3, thị trấn L, huyện N, tỉnh Nam Định.

Hiện đang chấp hành án tại Đội 22, Phân trại số 2 Trại Giam N, Bộ Công an.

Tại phiên tòa có mặt chị Y, vắng mặt anh C.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện lập ngày 03/01/2022 cũng như lời khai của nguyên đơn là chị Nguyễn Thị Hoàng Y trong quá trình giải quyết và tại phiên toà hôm nay thể hiện: Chị kết hôn với anh Nguyễn Trọng C vào tháng 01/1992 trên cơ sở tự nguyện, đăng ký kết hôn tại UBND thị trấn L. Sau khi được cấp đăng ký kết hôn vợ chồng chung sống hạnh phúc, mâu thuẫn vợ chồng phát sinh từ năm 2010 nguyên nhân là do bất đồng quan điểm sống và làm ăn kinh tế, anh C chơi bời, không quan tâm đến chị và các con, chị và gia đình hai bên đã khuyên giải nhưng anh C không thay đổi do anh chơi bời dẫn đến vi phạm pháp luật và bị Toà án xử 09 năm tù giam hiện anh C đang chấp hành án tại Trại giam N, Bộ công an. Trong thời gian anh C chấp hành án chị vẫn thăm nuôi nhưng chị thấy anh C không thay đổi. Nay chị xác định tình cảm vợ chồng không còn đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn anh Nguyễn Trọng C.

Về con chung: Chị Nguyễn Thị Hoàng Y xác định vợ chồng có 02 con chung là cháu Nguyễn Minh Ng sinh ngày 30/11/1992 và cháu Nguyễn Ngọc D sinh ngày 21/12/2006. Hiện cháu Ng đã trưởng thành vợ chồng ly hôn chị không yêu cầu Toà án giải quyết cấp dưỡng đối với cháu Ng. Cháu Nguyễn Ngọc D sinh ngày 21/12/2006, vợ chồng ly hôn chị xin nhận trực tiếp nuôi dưỡng, không yêu cầu anh C đóng góp cấp dưỡng nuôi con cùng chị.

Về tài sản chung: Theo chị Nguyễn Thị Hoàng Y xác định vợ chồng có tài sản nhưng tự vợ chồng giải quyết, chị không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về án phí dân sự sơ thẩm chị Nguyễn Thị Hoàng Y đề nghị giải quyết theo quy định.

Tại phiên tòa hôm nay bị đơn anh Nguyễn Trọng C vắng mặt, lời khai của anh C tại bản tự khai thể hiện: Anh xác định việc chị Y khai về việc kết hôn giữa anh với chị là đúng, vợ chồng được UBND thị trấn L, huyện N, tỉnh Nam Định cấp đăng kí kết hôn vào tháng 01/1992. Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống và mâu thuẫn phát sinh như chị Y trình bày. Nay chị Y có đơn xin ly hôn quan điểm của anh đề nghị rõ ràng tài sản chung của vợ chồng sau đó anh mới đồng ý ly hôn. Về con chung anh Nguyễn Trọng C xác định vợ chồng có 02 con chung là cháu Nguyễn Minh Ng, sinh ngày 30/11/1992 và cháu Nguyễn Ngọc D, sinh ngày 21/12/2006. Hiện cháu Ng đã trưởng thành vợ chồng ly hôn không yêu cầu Toà án giải quyết cấp dưỡng. Cháu Nguyễn Ngọc D, sinh ngày 21/12/2006. Vợ chồng ly hôn chị Y xin nhận trực tiếp nuôi dưỡng cháu D, không yêu cầu anh đóng góp cấp dưỡng nuôi con cùng chị thì anh cũng nhất trí. Về tài sản chung anh đề nghị Toà án tạo điều kiện khi nào anh chấp hành án xong về sẽ giải quyết rõ ràng với chị Y.

Đại diện Viện kiểm sát tham gia phiên toà phát biểu ý kiến:

+ Về tố tụng: Qua kiểm sát việc giải quyết vụ án từ khi thụ lý đến xét xử tại phiên toà hôm nay Thẩm Phán thụ lý giảỉ quyết cũng như Hội đồng xét xử đã thực hiện đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.

+ Về nội dung:

Quan hệ hôn nhân: Xét thấy hôn nhân giữa chị Nguyễn Thị Hoàng Y và anh Nguyễn Trọng C không còn đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình xử ly hôn. Về con chung áp dụng các Điều 81, 82 và 83 Luật hôn nhân và gia đình giao cháu Nguyễn Ngọc D, sinh ngày 21/12/2006 cho chị Y trực tiếp nuôi dưỡng, anh C không phải đóng góp cấp dưỡng nuôi con chung cùng chị Y, tài sản chung chị Y không yêu cầu Toà án giải quyết. Về án phí dân sự sơ thẩm đề nghị Hội đồng xét xử tuyên chị Y phải nộp.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên Toà, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng: Chị Nguyễn Thị Hoàng Y và anh Nguyễn Trọng C đăng ký hộ khẩu thường trú tại thị trấn L huyện N, tỉnh Nam Định, việc chị Y có đơn yêu cầu Tòa án nhân dân huyện N giải quyết vụ án của anh chị được Tòa án nhân dân huyện N thụ lý giải quyết vụ án là phù hợp với quy định tại khoản 1 Điều 28; khoản 1 Điều 35; khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng Dân sự.

Tại phiên toà hôm nay anh Nguyễn Trọng C vắng mặt nhưng đã được triệu tập phiên toà hợp lệ và vắng mặt lần thứ 2 vì vậy Tòa án nhân dân huyện N xét xử vắng mặt anh C là có căn cứ và phù hợp với quy định tại khoản 1 Điều 228 Bộ luật Tố tụng Dân sự.

[2] Về nội dung: Cuộc hôn nhân giữa chị Nguyễn Thị Hoàng Y và anh Nguyễn Trọng C vào tháng 01/1992 được UBND xã thị trấn L cấp đăng ký kết hôn là một hôn nhân tự do, tiến bộ và có đủ các điều kiện theo quy định của pháp luật. Sau khi kết hôn vợ chồng đã có thời gian chung sống hạnh phúc, đến năm 2010 mâu thuẫn vợ chồng phát sinh, nguyên nhân là do bất đồng quan điểm sống và làm ăn kinh tế, anh C chơi bời, không quan tâm đến chị Y và các con, chị Y cùng gia đình hai bên đã khuyên giải nhưng anh C không thay đổi do anh chơi bời dẫn đến vi phạm pháp luật và bị Toà án xử 09 năm tù giam. Nay chị Y xác định tình cảm vợ chồng không còn đề nghị Tòa án nhân dân huyện N giải quyết vợ chồng được ly hôn, anh C xác định vợ chồng có mâu thuẫn nhưng không đề nghị Toà án xem xét về tình cảm mà chỉ đề nghị giải quyết xong tài sản rồi ly hôn. Quan điểm Viện kiểm sát đề nghị giải quyết cho ly hôn. Xét tình cảm vợ chồng giữa chị Y và anh C thấy mâu thuẫn vợ chồng đã trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được nay chị Nguyễn Thị Hoàng Y có đơn xin ly hôn anh Nguyễn Trọng C xét thấy có căn cứ, phù hợp với quy định tại Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[3] Về con chung: Chị Nguyễn Thị Hoàng Y và anh Nguyễn Trọng C đều thống nhất xác định vợ chồng 02 con chung là cháu Nguyễn Minh Ng, sinh ngày 30/11/1992 và cháu Nguyễn Ngọc D, sinh ngày 21/12/2006. Hiện cháu Ng đã trưởng thành vợ chồng ly hôn chị không yêu cầu Toà án giải quyết cấp dưỡng đối với cháu Ng. Cháu Nguyễn Ngọc D, sinh ngày 21/12/2006, vợ chồng ly hôn chị Y xin nhận trực tiếp nuôi dưỡng, không yêu cầu anh C đóng góp cấp dưỡng nuôi con cùng chị, phía anh C cũng nhất trí. Mặt khác cháu D có nguyện vọng xin được ở với mẹ vì vậy tiếp tục giao cháu D cho chị Y trực tiếp nuôi dưỡng là phù hợp. Xét nguyện vọng không yêu cầu anh C đóng góp cấp dưỡng nuôi cháu D của chị Y thấy bản thân chị Y hiện đang buôn bán có thu nhập và nguyện vọng của chị là hoàn toàn tự nguyện không trái đạo đức xã hội, không vi phạm điều cấm của pháp luật nên được chấp nhận.

[4] Về tài sản chung vợ chồng: Chị Nguyễn Thị Hoàng Y xác định vợ chồng có tài sản chung nhưng vợ chồng tự giải quyết và chị không yêu cầu Toà án giải quyết. Phía anh Nguyễn Trọng C xác định vợ chồng có tài sản chung và anh có quan điểm muốn giải quyết xong về tài sản thì anh mới nhất trí ly hôn. Tuy nhiên hiện nay anh C đang phải chấp hành hình phạt tù tại Trại giam N, Bộ công an và anh cũng không làm đơn đề nghị Tòa án giải quyết chia tài sản chung của vợ chồng và làm các thủ tục theo quy định của pháp luật.

Hội đồng xét xử thấy: Chị Y và anh C đều không có đơn yêu cầu Toà án giải quyết về phần tài sản chung của vợ chồng do vậy Toà án không giải quyết phần tài sản chung của vợ chồng chị Y, anh C trong vụ án này. Mặt khác sau này anh C và chị Y đều có quyền khởi kiện yêu cầu Toà án giải quyết tài sản chung của vợ chồng bằng một vụ án khác mà vẫn đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của các bên.

[5] Về án phí dân sự sơ thẩm chị Nguyễn Thị Hoàng Y phải nộp theo quy định của pháp luật.

[6] Thấy đề nghị của Viện kiểm sát nhân dân huyện N về việc giải quyết vụ án là phù hợp.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ các Điều 56, 81, 82 và 83 Luật hôn nhân và gia đình; Căn cứ các Điều 147, 271 và 273 Bộ luật Tố tụng Dân sự;

Căn cứ Điều 6 và Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội;

1 - Xử ly hôn giữa chị Nguyễn Thị Hoàng Y và anh Nguyễn Trọng C.

2 - Về con chung: Giao con chung của vợ chồng là cháu Nguyễn Ngọc D, sinh ngày 21/12/2006 cho chị Nguyễn Thị Hoàng Y trực tiếp nuôi dưỡng, anh C không phải đóng góp cấp dưỡng nuôi con chung cùng chị Y. Không ai được ngăn cản quyền chăm sóc, giáo dục, nuôi dưỡng và thăm nom con chung.

3 - Án phí dân sự sơ thẩm chị Nguyễn Thị Hoàng Y phải nộp 300.000đ, nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí 300.000đ chị Y đã nộp theo biên lai số 0001350 ngày 18/02/2022 tại Chi cục thi hành án dân sự huyện N, chị Y đã nộp đủ án phí dân sự sơ thẩm.

Án xử công khai sơ thẩm có mặt nguyên đơn, vắng mặt bị đơn. Báo cho người có mặt biết có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người vắng mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án.

Trong trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án và người phải thi hành án có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

239
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp hôn nhân và gia đình số 66/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:66/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Nghĩa Hưng - Nam Định
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành:19/05/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về