Bản án về tranh chấp hôn nhân và gia đình số 65/2022/HNGĐ-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CON CUÔNG - TỈNH NGHỆ AN

BẢN ÁN 65/2022/HNGĐ-ST NGÀY 16/06/2022 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH

Ngày 16 tháng 6 năm 2022, tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Con Cuông, tỉnh Nghệ An, xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 47/2022/TLST-HNGĐ ngày 12 tháng 4 năm 2022 về việc “Tranh chấp Hôn nhân và gia đình” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 24/2022/QĐXX-ST, ngày 11 tháng 5 năm 2022 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Anh Lô Văn Th, sinh năm 1989.

Địa chỉ: Bản N, xã M, huyện C, NA – có mặt.

Bị đơn: Chị Lương Thị H, sinh năm 1994.

Địa chỉ: Bản X, xã Đ, huyện C, NA - vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện của nguyên đơn và trong quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa anh Lô Văn Th trình bày: Anh và chị Lương Thị H kết hôn vào ngày 20/8/2012, đăng ký kết hôn tại UBND xã Đ, huyện C, tỉnh NA, việc kết hôn là hoàn toàn tự nguyện. Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống hạnh phúc được khoảng 9 năm thì bắt đầu phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do tính cách và quan điểm sống không hòa hợp nên thường xuyên cãi vã, xích mích, xúc phạm lẫn nhau. Chị H không quan tâm chăm sóc chồng con và thường xuyên đi khỏi nhà nhiều lần không nói với chồng con biết đi đâu, từ tháng 8 năm 2020 chị H bỏ về nhà bố mẹ đẻ sinh sống và đi làm ăn ở xa thỉnh thoảng có về nhà nhưng không đến thăm chồng và các con, vợ chồng sống ly thân tử năm 2018 cho đến nay không còn quan tâm đến nhau nữa, tình cảm vợ chồng không còn nên anh Th đề nghị Tòa án giải quyết cho anh được ly hôn với chị Lương Thị H.

Về con chung: Quá trình chung sống vợ chồng có 02 người con chung Lô Thủy T – sinh ngày 13/11/2012 và Lô Thị Khánh H – sinh ngày 06/4/2016, hiện tại các con đang ở cùng anh Th. Nếu ly hôn anh có nguyện vọng được trực tiếp nuôi hai người con chung và không yêu cầu chị H cấp dưỡng tiền nuôi con.

Về tài sản chung: Vợ chồng thỏa thuận tự chia không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về nợ chung: Vợ chồng anh Th không nợ tổ chức, cá nhân nào và cũng không ai nợ vợ chồng .

Quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa sơ thẩm chị H đều vắng mặt, mặc dù đã được Tòa án tống đạt hợp lệ giấy triệu tập nhiều lần nên Tòa án không thể tiến hành các thủ tục tố tụng theo quy định tại Điều 204; 207; 208 và Điều 227 của Bộ luật tố tụng dân sự.

Tại phiên tòa, Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Con Cuông phát biểu ý kiến theo quy định tại Điều 262 Bộ luật tố tụng dân sự như sau:

- Về tố tụng:

+ Việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử: quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa Thẩm phán, Hội đồng xét xử đã tuân thủ đúng quy định của pháp luật tố tụng dân sự.

+ Việc chấp hành pháp luật của những người tham gia tố tụng; nguyên đơn chấp hành đúng quy định của pháp luật, bị đơn chưa chấp hành đúng các quy định tại Điều 70, 72 của Bộ luật tố tụng dân sự.

- Về nội dung: Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Điều 51; Điều 53; Điều 56; Điều 81; Điều 82; Điều 83; Điều 84 Luật Hôn nhân và gia đình chấp nhận đơn ly hôn của anh Lô Văn Th. Anh Th và chị H chấm dứt quan hệ hôn nhân kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật; Về con chung: Giao con chung Lô Thủy T – sinh ngày 13/11/2012 và Lô Thị Khánh H – sinh ngày 06/4/2016 cho anh Lô Văn Th trực tiếp nuôi dưỡng; Về cấp dưỡng nuôi con và tài sản chung của vợ chồng anh Th không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không xem xét; Về án phí anh Lô Văn Th phải chịu án phí ly hôn theo quy định của pháp luật.

[1] Về tố tụng:

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Đây là vụ án tranh chấp hôn nhân và gia đình, bị đơn hiện cư trú tại Bản X, xã Đ, huyện C, tỉnh NA nên Tòa án nhân dân huyện Con Cuông thụ lý giải quyết là đúng thẩm quyền theo quy định tại khoản 1 Điều 28; khoản 1 Điều 35 và Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự.

Qua xác minh tình trạng hôn nhân của anh Th và chị H tại UBND xã Đ cho biết, sau khi đăng ký kết hôn chị H về sinh sống cùng anh Th tại xã M đến năm 2018 thì chị H về sinh sống cùng bố mẹ đẻ tại bản Xiềng, xã Đ nhưng hiện nay chị H đi đâu, làm gì thì chính quyền, địa phương không biết. Tại biên bản lấy lời khai bà Kha Thị Mùi - trú tại Bản X, xã Đ, huyện C, tỉnh NA là mẹ đẻ của chị H cho biết, chị H kết hôn với anh Th thời gian đầu chung sống hòa thuận, nhưng đến năm 2018 thì vợ chồng xẩy ra mâu thuẫn nên chị H về sinh sống cùng gia đình bà và đi làm ăn xa địa chỉ cụ thể thì bà không biết, thỉnh thoảng chị H có gọi điện về hỏi thăm và bà Mùi cũng đã thông báo cho chị H biết việc anh Th làm đơn ly hôn và thông báo cho chị H biết về việc bà nhận các văn bản của Tòa án đến tống đạt cho chị H và khuyên nhủ chị H về giải quyết ly hôn nhưng chị H không về, chị H nhắn lại cho bà Mùi biết ý kiến của chị H là nhất trí ly hôn.

Như vậy, bị đơn đã thay đổi nơi cư trú nhưng không thông báo cho người khởi kiện biết về nơi cư trú mới. Theo quy định tại Điều 40; điểm b khoản 2 Điều 227 của Bộ luật tố tụng dân sự thì được coi là cố tình che giấu địa chỉ nên Tòa án tiếp tục giải quyết vụ án theo thủ tụng chung là phù hợp với hướng dẫn tại điểm a khoản 2 Điều 6 Nghị quyết 04/2017/NQ-HĐTP ngày 05/5/2017 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao.

Quá trình giải quyết vụ án, bị đơn chị Lương Thị H đã được Tòa án tống đạt, niêm yết hợp lệ Thông báo về việc thụ lý vụ án, giấy triệu tập để trình bày ý kiến; Thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải; Quyết định đưa vụ án ra xét xử; Quyết định hoãn phiên tòa nhưng vẫn vắng mặt nên Hội đồng xét xử quyết định đưa vụ án ra xét xử vắng mặt chị H theo quy định tại Điều 227 và Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự. Bị đơn chị H không nộp văn bản ghi ý kiến của mình đối với yêu cầu khởi kiện nên Tòa án căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ mà nguyên đơn đã giao nộp và Tòa án thu thập được để giải quyết vụ án theo quy định tại khoản 1 Điều 96 của Bộ luật tố tụng dân sự.

[2] Về nội dung:

Xét thấy anh Lô Văn Th và chị Lương Thị H có đăng ký kết hôn vào ngày 20/8/2012 tại Ủy ban nhân dân xã Đ, huyện C, tỉnh NA, việc đăng ký kết hôn là tự nguyện, không vi phạm quy định về điều kiện và thủ tục kết hôn theo quy định tại Điều 8, Điều 9 Luật Hôn nhân và gia đình. Như vậy, quan hệ hôn nhân giữa anh Th và chị H là hợp pháp.

Sau khi kết hôn, vợ chồng anh Th và chị H chung sống hạnh phúc được một thời gian thì phát sinh mâu thuẫn và sống ly thân với nhau từ năm 2018 cho đến nay, không còn quan tâm, chăm sóc lẫn nhau, như vậy anh Th và chị H đã vi phạm tình nghĩa vợ chồng.

Tại phiên tòa chị H vắng mặt không có ý kiến trình bày nhưng qua xác minh tại địa phương và gia đình bà Kha Thị Mùi mẹ đẻ chị H cho biết: Quá trình kết hôn và chung sống vợ chồng anh Th và chị H có nhiều mâu thuẫn chị H bỏ đi làm ăn mỗi người một nơi. Bà Mùi đã nhận các văn bản tố tụng của Tòa án đến tống đạt cho chị H và bà đã thông báo cho chị H biết để về giải quyết ly hôn nhưng chị H không về và ý kiến của chị H cũng nhất trí ly hôn. Xét thấy tình cảm vợ chồng giữa anh Th và chị H không còn, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được nên cần áp dụng Điều 56 của Luật Hôn nhân và gia đình chấp nhận cho anh Lô Văn Th được ly hôn với chị Lương Thị H.

Về con chung: Vợ chồng anh Lô Văn Th và chị Lương Thị H có 02 người con chung Lô Thủy T – sinh ngày 13/11/2012 và Lô Thị Khánh H – sinh ngày 06/4/2016, hiện tại các con đang ở cùng anh Th. Nếu ly hôn anh Th có nguyện vọng được trực tiếp nuôi hai người con chung và không yêu cầu chị H cấp dưỡng tiền nuôi con. Do hiện nay chị H không có mặt ở địa phương, việc giao con cho chị H nuôi dưỡng là không đảm bảo điều kiện về mọi mặt của con. Xét thấy nguyện vọng của anh Th là chính đáng và nguyện vọng của cháu H cũng mong muốn được ở cùng với bố, để đảm bảo quyền lợi của con nên xét giao hai người con chung cho anh Lô Văn Th trực tiếp nuôi dưỡng cho đến khi tròn 18 tuổi,trưởng thành. Về cấp dưỡng nuôi con do anh Th không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không xem xét.

Về tài sản chung: Anh Lô Văn Th không yêu cầu Tòa án giải quyết nên căn cứ vào khoản 1 Điều 5 của Bộ luật tố tụng dân sự Hội đồng xét xử không xem xét.

Về án phí: Anh Lô Văn Th phải nộp án phí ly hôn theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng: Điều 51; Điều 53; Điều 56; Điều 81; Điều 82; Điều 83; Điều 84 của Luật Hôn nhân và gia đình; khoản 1 Điều 28; khoản 1 Điều 35; Điều 39; Điều 207; Điều 227; Điều 228; Điều 238 và Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự.

Xử:

- Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận cho anh Lô Văn Th và được ly hôn với chị Lương Thị H.

- Về con chung: Giao con chung Lô Thủy T – sinh ngày 13/11/2012 và Lô Thị Khánh H – sinh ngày 06/4/2016 cho anh Lô Văn Th trực tiếp nuôi dưỡng cho đến khi tròn 18 tuổi, trưởng thành.

Chị Lương Thị H có quyền thăm nom, chăm sóc con chung không ai được cản trở, vì lợi ích mọi mặt của con khi cần thiết một hoặc cả hai bên có quyền yêu cầu thay đổi cấp dưỡng nuôi con hoặc người trực tiếp nuôi con.

Anh Th cùng các thành viên trong gia đình không được cản trở người không trực tiếp nuôi con trong việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con.

- Về án phí: Áp dụng khoản 4 điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự; điểm a, khoản 5 điều 27 Nghị quyết số 326/2016 của Ủy ban thường vụ quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án, anh Lô Văn Th phải nộp 300.000 đồng án phí ly hôn được trừ vào tiền tạm ứng án phí anh Th đã nộp 300.000 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Con Cuông, tỉnh Nghệ An theo biên lai thu tiền số 0000654 ngày 12/4/2022.

Nguyên đơn có quyền kháng cáo lên Tòa án nhân dân tỉnh Nghệ An trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị đơn có quyền kháng cáo lên Tòa án nhân dân tỉnh Nghệ An trong hạn 15 ngày kể từ ngày bản án được tống đạt hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

306
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp hôn nhân và gia đình số 65/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:65/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Con Cuông - Nghệ An
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 16/06/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về