Bản án về tranh chấp hôn nhân và gia đình số 62/2022/HNGĐ-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CẨM KHÊ, TỈNH PHÚ THỌ

BẢN ÁN 62/2022/HNGĐ-ST NGÀY 15/08/2022 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH

Ngày 15 tháng 8 năm 2022, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Cẩm Khê, tỉnh Phú Thọ xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 77/2021/TLST- HNGĐ ngày 13 tháng 12 năm 2021 về việc: “Tranh chấp hôn nhân và gia đình” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 62a/2022/QĐXXST-HNGĐ ngày 13 tháng 6 năm 2022, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Trịnh Thị V, sinh năm 1989 (Có mặt).

2. Bị đơn: Anh Trương Hoàng H, sinh năm 1976 (vắng mặt lần thứ hai không có lý do).

Cùng địa chỉ: Khu T 2, xã P, huyện Cẩm Khê, tỉnh Phú Thọ.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện đề ngày 15/11/2021, tại bản tự khai; quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa, nguyên đơn chị Trịnh Thị V trình bày:

- Về quan hệ hôn nhân: Chị và anh Trương Hoàng H kết hôn tự nguyện, đăng ký kết hôn ngày 28/11/2006, tại Ủy ban nhân dân xã H, huyện G, tỉnh Kiên Giang. Sau khi kết hôn thì anh H chuyển hộ khẩu từ xã H đến xã P, huyện C, tỉnh Phú Thọ để sinh sống cùng quê của chị. Trong quá trình chung sống thì tình cảm vợ chồng hạnh phúc được khoảng 7 năm sau đó đã xảy ra mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn là do vợ chồng có nhiều bất đồng quan điểm trong cuộc sống. Từ năm 2017 đến nay, do vợ chồng mâu thuẫn trầm trọng nên sống ly thân, không còn quan tâm đến nhau. Anh H bỏ đi làm ăn không cung cấp địa chỉ cho chị. Nay chị xác định tình cảm vợ chồng giữa chị và anh H không còn, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được nên chị xin ly hôn anh H để ổn định cuộc sống.

- Về con chung: Vợ chồng anh chị có một con chung là Trương Ngọc A, sinh ngày 03/11/2007. Hiện nay con chung đang ở cùng với chị. Ly hôn chị xin được trực tiếp nuôi dưỡng con chung và không yêu cầu anh H phải cấp dưỡng nuôi con chung.

- Về tài sản chung; Quyền, nghĩa vụ chung về tài sản và công sức: Chị V không đề nghị Tòa án giải quyết.

Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án nhân dân huyện Cẩm Khê đã báo anh H hợp lệ nhưng anh H không đến giải quyết việc chị V xin ly hôn nên Tòa án phải tiến hành thông báo tìm kiếm người vắng mặt tại nơi cư trú và niêm yết các văn bản tố tụng hợp lệ để nhưng anh H không đến Tòa án giải quyết việc chị V xin ly hôn nên không thể lấy lời khai của anh H.

Tại phiên tòa, Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Cẩm Khê phát biểu quan điểm:

- Về việc tuân theo pháp luật: Quá trình Tòa án thụ lý, giải quyết vụ án của Thẩm phán, thư ký Tòa án và của Hội đồng xét xử, việc chấp hành pháp luật của nguyên đơn là chị V kể từ khi thụ lý vụ án cho đến tại phiên tòa đã tiến hành đúng thủ tục tố tụng và quy định của Pháp luật. Bị đơn là anh H cố tình vắng mặt là chưa thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ quy định tại Điều 70 của Bộ luật tố tụng Dân sự.

- Về nội dung vụ án:

Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Khoản 1 Điều 56; khoản 2 Điều 81, 82 và Điều 83 Luật Hôn nhân và gia đình; khoản 4 Điều 147; Điều 180; điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự và Điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc hội ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án.

\ Về quan hệ hôn nhân: Đề nghị Hội đồng xét xử cho chị Trịnh Thị V được ly hôn anh Trương Hoàng H.

Về con chung: Giao con chung là cháu Trương Ngọc A, sinh ngày 03/11/2007 cho chị Trịnh Thị V trưc tiếp nuôi dưỡng; anh Trương Hoàng H không phải cấp dưỡng nuôi con chung vì chị V không yêu cầu, nhưng anh H có quyền, nghĩa vụ thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung không ai được cản trở.

Về tài sản chung, Quyền, nghĩa vụ chung về tài sản và công sức: Do chị V không đề nghị xem xét, nên đề nghị Tòa án không giải quyết.

Về án phí: Chị V phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Về lệ phí: Chị Trịnh Thị V tự nguyện chịu toàn bộ lệ phí đăng báo công lý và đăng tin tại Trung tâm quảng cáo và dịch vụ truyền thông số tiền 3.000.000đ (Ba triệu đồng).

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, đã được thẩm tra tại phiên toà; căn cứ vào kết quả hỏi tại phiên tòa trên cơ sở xem xét, đA giá đầy đủ và toàn diện chứng cứ, Hội đồng xét xử nhận định:

[1]. Về thủ tục tố tụng: Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã báo anh H đến để giải quyết việc chị V xin ly hôn nhưng anh H vẫn cố tình vắng mặt. Vì vậy, Tòa án đã tiến hành thủ tục thông tin trên báo Trung ương ba số báo liên tiếp; trên Đài truyền thanh trong ba ngày liên tiếp; trên cổng thông tin điện tử Tòa án và tiến hành thủ tục niêm yết văn bản tố tụng hợp lệ và đưa vụ án ra giải quyết, xét xử vắng mặt anh H là thực hiện đúng quy định của pháp luật.

[2]. Về nội dung vụ án.

2.1. Xét yêu cầu khởi kiện của chị Trịnh Thị V xin được ly hôn anh Trương Hoàng H thấy rằng: Chị V và anh H kết hôn trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã H, huyện G, tỉnh An Giang ngày 28/11/2006 là hôn nhân hợp pháp.

Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã báo anh H nhiều lần đến Tòa án nhân dân huyện Cẩm Khê, tỉnh Phú Thọ để giải quyết việc chị V xin ly hôn và đã thông tin trên báo Trung ương ba số báo liên tiếp; trên Đài truyền thanh trong ba ngày liên tiếp nhưng anh H cố tình vắng mặt, không tham gia hòa giải mâu thuẫn để vợ chồng về đoàn tụ. Như vậy, đủ cơ sở để xác định tình cảm vợ chồng giữa chị V và anh H đã mâu thuẫn trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Nên cần chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị V, cho chị V được ly hôn anh H để ổn định cuộc sống.

2.2. Về con chung: Chị V và anh H có một con chung là Trương Ngọc A, sinh ngày 03/11/2007. Hiện nay cháu A đang ở cùng chị V; Xét nguyện vọng của cháu A được ở với chị V. Do đó, để đảm bảo sự ổn định cho con chung của anh chị, cần giao cháu A cho chị V trực tiếp nuôi dưỡng. Chị V không đề nghị giải quyết cấp dưỡng nuôi con nên Tòa án không xem xét nhưng anh H có quyền, nghĩa vụ thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung không ai được cản trở.

2.3. Về tài sản chung; Quyền, nghĩa vụ chung về tài sản và công sức: Chị V không đề nghị giải quyết, nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[3]. Về án phí: Chị V phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[4]. Về lệ phí: Chị V tự nguyện chịu toàn bộ lệ phí tố tụng theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng khoản 1 Điều 56; Điều 81, 82 và Điều 83 Luật Hôn nhân và gia đình; khoản 4 Điều 147; Điều 180; điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự và Điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc hội ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án và Điều 26 của Luật thi hành án Dân sự.

Xử:

1. Về quan hệ hôn nhân: Cho chị Trịnh Thị V được ly hôn anh Trương Hoàng H.

2. Về con chung: Giao con chung là Trương Ngọc A, sinh ngày 03/11/2007 cho chị Trịnh Thị V được trực tiếp nuôi dưỡng; anh Trương Hoàng H không phải cấp dưỡng nuôi con chung vì chị V không yêu cầu, anh H có quyền, nghĩa vụ thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung không ai được cản trở.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự; người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án tự nguyện thi hành án, cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7, 7a và 9 Luật thi hành án dân sự. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

3. Về án phí: Chị Trịnh Thị V phải chịu 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm, nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí chị V đã nộp là 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí số 0007740, ngày 07/12/2021 tại Chi cục thi hành án dân sự huyện Cẩm Khê; chị V đã nộp đủ án phí dân sự sơ thẩm.

4. Về lệ phí: Chị Trịnh Thị V tự nguyện chịu 3.000.000đ (Ba triệu đồng) lệ phí Tòa án. Xác nhận chị V đã nộp đủ số tiền lệ phí.

Chị V có mặt được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; anh H vắng mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày được giao nhận bản án hoặc bản án được niêm yết để yêu cầu Toà án nhân dân tỉnh Phú Thọ xét xử theo trình tự phúc thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

146
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp hôn nhân và gia đình số 62/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:62/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Cẩm Khê - Phú Thọ
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 15/08/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về