Bản án về tranh chấp hôn nhân và gia đình số 56/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ VINH, TỈNH NGHỆ AN

BẢN ÁN 56/2022/HNGĐ-ST NGÀY 16/06/2022 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH

Hôm nay, ngày 16 tháng 6 năm 2022, tại trụ sở Toà án nhân dân thành phố Vinh xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 114/2022/TLST–HNGĐ ngày 16 tháng 3 năm 2022 về tranh chấp Hôn nhân và gia đình. Theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 46/2022/QĐXX-ST ngày 09 tháng 5 năm 2022 và Quyết định hoãn phiên tòa số 33/2022/QĐST-HNGĐ ngày 30 tháng 5 năm 2022 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Phạm Thị V, sinh năm 1995. ĐKHKTT: Khối M, phường Đ, thành phố Vinh. Chỗ ở hiện nay: Số 16, ngõ 51, đường H, Khối 6, phường L, thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An. Có mặt.

- Bị đơn: Anh Lê Hồng V, sinh năm: 1980. ĐKHKTT Khối M, phường Đ, thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện yêu cầu giải quyết ly hôn đề ngày 11/3/2022, bản tự khai và những lời trình bày trong quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa hôm nay chị Phạm Thị V trình bày: Chị và anh Lê Hồng V kết hôn trên cơ sở tự nguyện có đăng ký kết hôn vào ngày 03/8/2014 tại Ủy ban nhân dân phường Đ, thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An. Quá trình chung sống vợ chồng sống hạnh phúc một thời gian ngắn thì phát sinh mâu thuẫn từ năm 2017. Nguyên nhân mâu thuẫn là do anh V hay uống rượu về hay chửi và đánh đập vợ con và đuổi chị ra khỏi nhà. Tình trạng vợ chồng ngày càng trầm trọng, đỉnh điểm vào tháng 6 năm 2019 thì anh V chửi bới chị và đuổi chị ra khỏi nhà do anh V nghi ngờ chị ngoại tình, không tin tưởng chị. Vì quá mệt mỏi nên chị về nhà ngoại sinh sống một thời gian tại khối 15, phường Cửa Nam, sau đó chị chuyển ra ngoài thuê trọ sinh sống. Từ đó đến nay vợ chồng sống ly thân được 4 năm, vợ chồng không còn quan tâm, chăm sóc lẫn nhau, mâu thuẫn không thể khắc phục được. Nay chị thấy không còn tình cảm với anh V, vợ chồng sống không hạnh phúc, mâu thuẫn vợ chồng đã trầm trọng nên đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn anh Lê Hồng V.

Về con chung: Quá trình chung sống chị Phạm Thị V và anh Lê Hồng V có 02 con chung. Nay ly hôn chị V có nguyện vọng giao 02 (hai) con chung là Lê Hồng C, sinh ngày 26/9/2010 và Lê Thị Hồng N, sinh ngày 24/02/2012 cho anh Lê Hồng V trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng và đề nghị tạm hoãn cấp dưỡng nuôi con cho chị vì hiện tại chị đang đi làm thuê thu nhập thấp, chưa có điều kiện cấp dưỡng nuôi con chung.

Về tài sản: Chị V trình bày vợ chồng không có tài sản chung và không có khoản nợ chung nào. Chị V không yêu cầu Tòa án giải quyết về tài sản.

- Tại Biên bản lấy lời khai trong quá trình giải quyết vụ án anh Lê Hồng V trình bày: Anh và chị Phạm Thị V kết hôn trên cơ sở tự nguyện có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân phường Đ, thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An vào ngày 03/8/2014. Sau khi kết hôn vợ chồng sống với nhau một thời gian thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn là do chị V không chung thủy, không có trách nhiệm với chồng con. Trước đây anh có níu kéo, mong chị V trở về đoàn tụ nhưng chị V vẫn bỏ đi. Chị V bỏ đi từ năm 2019, vợ chồng sống ly thân từ đó cho đến nay. Nay chị V muốn ly hôn thì đó là việc của chị V, anh không liên quan.

Về con chung: Vợ chồng có 02 (hai) con chung như chị Phạm Thị V đã trình bày. Nay ly hôn anh có nguyện vọng giao 02 (Hai) con chung là Lê Hồng C, sinh ngày 26/9/2010 và Lê Thị Hồng N, sinh ngày 24/02/2012 cho anh trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng. Anh V không yêu cầu chị V cấp dưỡng nuôi con chung.

Về tài sản: Anh V trình bày anh và chị V không có tài sản chung. Anh V không yêu cầu Tòa án giải quyết về tài sản.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Vinh tham gia phiên tòa phát biểu ý kiến:

- Về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử: Quá trình thụ lý và giải quyết vụ án, Thẩm phán đã tuân thủ đúng các quy định tại Điều 48 BLTTDS; việc thụ lý và giải quyết vụ án đúng quy định tại Điều 28, Điều 35, Điều 39 BLTTDS; xác định đúng tư cách đương sự, thời hạn chuẩn bị xét xử đảm bảo đúng quy định. Tại phiên tòa, Hội đồng xét xử tuân thủ đúng các quy định của BLTTDS. Do anh Lê Hồng V được triệu tập hợp lệ đến phiên tòa lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt nên Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt anh V theo các điều 227, 228 BLTTDS là có cơ sở. Việc chấp hành pháp luật của những người tham gia tố tụng: Nguyên đơn đã chấp hành đúng quy định tại Điều 70, 71; Bị đơn không chấp hành đúng quy định tại điều 70, 72 BLTTDS.

- Về việc giải quyết vụ án: Đề nghị áp dụng Điều 56, 81, 82, 83 của Luật Hôn nhân và gia đình. Khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39, điều 91, Điều 147, khoản 1 Điều 207, Điều 227, Điều 271 và Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự: Về tình cảm: Cho chị Phạm Thị V được ly hôn anh Lê Hồng V.

Về con chung: Giao 02 (hai) con chung là Lê Hồng C, sinh ngày 26/9/2010 và Lê Thị Hồng N, sinh ngày 24/02/2012 cho anh Lê Hồng V trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng. Tạm hoãn nghĩa vụ cấp dưỡng cho chị Phạm Thị V; Về án phí: Áp dụng điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án buộc chị Phạm Thị V phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, được thẩm tra xem xét tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1]. Về thủ tục tố tụng:

[1.1]. Về thẩm quyền: Đây là vụ án về tranh chấp hôn nhân và đình, bị đơn là anh Lê Hồng V hiện có hộ khẩu thường trú tại khối M, phường Đ, thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An nên căn cứ vào quy định tại Khoản 1 Điều 28, Khoản 1 Điều 35, Khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng Dân sự 2015, vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố Vinh.

[1.2]. Về việc vắng mặt của bị đơn tại phiên tòa: Sau khi thụ lý Toà án đã tiến hành tống đạt hợp lệ thông báo hoà giải, quyết định đưa vụ án ra xét xử, văn bản tố tụng khác cho Anh Lê Hồng V đúng quy định tại các điều 196, 208, 220 Bộ luật tố tụng dân sự nhưng anh V đều vắng mặt không có lý do nên vụ án thuộc trường hợp không tiến hành hòa giải được theo quy định tại khoản 1 điều 207 Bộ luật tố tụng dân sự. Do anh Lê Hồng V được triệu tập hợp lệ đến phiên tòa lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt nên Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt anh V theo quy định tại các điều 227, 228 BLTTDS.

[2]. Về nội dung:

[2.1]. Về quan hệ hôn nhân: Chị Phạm Thị V kết hôn với anh Lê Hồng V trên cơ sở tự nguyện, đăng ký kết hôn vào ngày 03/8/2014 tại Ủy ban nhân dân phường Đ, thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An. Vì vậy, quan hệ hôn nhân giữa chị V và anh V là hợp pháp nên được pháp luật thừa nhận và bảo vệ.

Hội đồng xét xử xét thấy: Theo lời trình bày của chị V và anh V thì thấy rằng mâu thuẫn vợ chồng xuất phát từ việc vợ chồng thiếu tin tưởng lẫn nhau, anh V cho rằng chị V ngoại tình, không chung thủy và chị V trình bày anh V rượu chè, chửi bới và thiếu tin tưởng chị nên chị cảm thấy mệt mỏi nên vợ chồng sống không hạnh phúc, mâu thuẫn không thể khắc phục được nên chị V kiên quyết yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn anh V. Tòa án đã thông báo hòa giải để thực hiện việc hòa giải cho chị Phạm Thị V và anh Lê Hồng V nhưng anh V vắng mặt nên Tòa án không thể hòa giải để vợ chồng trở về đoàn tụ được. Anh V và chị V đều thừa nhận tình trạng vợ chồng đã ly thân 4 năm kể từ năm 2019 cho đến nay, vợ chồng không còn quan tâm, chăm sóc lẫn nhau, nay chị V không còn tình cảm với anh V nữa cho thấy mâu thuẫn vợ chồng chị V và anh V đã trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Xét thấy yêu cầu xin ly hôn của chị V là phù hợp quy định pháp luật nên cần căn cứ Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình xử cho chị Phạm Thị V được ly hôn anh Lê Hồng V.

[2.2]. Về con chung: Quá trình chung sống chị Phạm Thị V và anh Lê Hồng V có 02 (hai) con chung là Lê Hồng C, sinh ngày 26/9/2010 và Lê Thị Hồng N, sinh ngày 24/02/2012. Nay ly hôn chị V và anh Lê Hồng V đều có nguyện vọng giao hai con chung cho anh Lê Hồng V trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng. Trong thời gian vợ chồng ly thân anh Lê Hồng V là người trực tiếp, chăm sóc và nuôi dưỡng các con chung. Anh Lê Hồng V có nơi ở ổn định, có công việc và thu nhập có thể trang trải và chăm sóc cho các con. Chị V hiện nay làm thuê thu nhập thấp, chỗ ở trọ không ổn đinh. Để đảm bảo sự phát triển tốt nhất cho các cháu cần chấp nhận nguyện vọng của chị V và anh V giao 02 (hai) con chung cho anh V được tiếp tục trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung là phù hợp và có căn cứ.

Về cấp dưỡng nuôi con: Anh Lê Hồng V không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con chung. Chị Phạm Thị V đề nghị tạm hoãn nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con cho chị V do chị V chưa có điều kiện kinh tế để chu cấp nuôi dưỡng cho các con nên cần chấp nhận.

[2.3]. Về tài sản chung: Chị Phạm Thị V không yêu cầu Tòa án giải quyết nên miễn xét.

[2.4]. Về án phí: Chị Phạm Thị V phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng khoản 1 Điều 51, Điều 56, 81, 82, 83 của Luật Hôn nhân và gia đình; Khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, Điều 97, Điều 147, khoản 2 Điều 207, Điều 227, điều 228, Điều 271, Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự; Điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án, Xử:

1. Về hôn nhân: Cho chị Phạm Thị V được ly hôn anh Lê Hồng V.

2. Về con chung: Giao 02 (hai) con chung là Lê Hồng C, sinh ngày 26/9/2010 và Lê Thị Hồng N, sinh ngày 24/02/2012 cho anh Lê Hồng V trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng.

Tạm hoãn nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung cho chị Phạm Thị V.

Chị Phạm Thị V có quyền đi lại thăm nom con chung, anh Lê Hồng V cùng các thành viên trong gia đình không được cản trở chị Phạm Thị V trong việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con.

Trong trường hợp có yêu cầu của cha, mẹ hoặc cá nhân, tổ chức theo quy định tại khoản 5 Điều 84 của Luật Hôn nhân và gia đình, Tòa án có thể quyết định việc thay đổi người trực tiếp nuôi con.

3. Về án phí: Chị Phạm Thị V phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm là 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) được khấu trừ tiền tạm ứng án phí 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) chị Phạm Thị V đã nộp theo biên lai số 0009961 ngày 14 tháng 3 năm 2022 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An.

4. Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, chị Phạm Thị V có quyền kháng cáo bản án lên Toà án nhân dân tỉnh Nghệ An; Anh Lê Hồng V có quyền kháng cáo bản án lên Toà án nhân dân tỉnh Nghệ An trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được tống đạt hợp lệ./

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

129
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp hôn nhân và gia đình số 56/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:56/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Vinh - Nghệ An
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 16/06/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về