Bản án về tranh chấp hôn nhân và gia đình số 45/2023/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN NAM ĐÀN, TỈNH NGH AN

BẢN ÁN 45/2023/HNGĐ-ST NGÀY 29/12/2023 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH

Ngày 29 tháng 12 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An mở phiên tòa xét xử công khai vụ án HNGĐ thụ lý số 260/2023/TLST-HNGĐ ngày 25 tháng 10 năm 2023 về “Tranh chấp hôn nhân và gia đình”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 74/2023/QĐXXST-HNGĐ ngày 29 tháng 11 năm 2023 và Quyết định hoãn phiên toà số 75:/2023/QĐXX-HNGĐ ngày 22/12/2023 của TAND huyện Nam Đàn giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Anh Lưu Văn T, sinh năm 1982 Nơi ĐKHKTT: xóm D, xã H, huyện H, huyện N, tỉnh Nghệ An; Nơi ở hiện nay: xóm B, xã X, huyện H, tỉnh Nghệ An. Có đơn đề nghị xét xử vắng mặt

Bị đơn: Chị Nguyễn Thị H, sinh năm 1983 Nơi cư trú: xóm D, xã T, huyện N, tỉnh Nghệ An; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện xin ly hôn đề ngày 20/10/2023 và quá trình giải quyết vụ án anh Lưu Văn T trình bày: Anh và chị Nguyễn Thị H kết hôn với nhau có đăng ký kết hôn tại UBND xã T, huyện N, tỉnh Nghệ An vào ngày 09/12/2021, hôn nhân hoàn toàn tự nguyện. Sau khi kết hôn, vợ chồng chung sống hạnh phúc được khoảng 09 tháng thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân là do vợ chồng không hợp tính nhau, bất đồng quan điểm sống. Từ tháng 5/2023 do mâu thuẫn ngày càng trầm trọng nên anh và chị H sống ly thân nhau mỗi người một nơi cho đến nay không quan tâm nhau nữa. Nay nhận thấy vợ chồng không còn tình cảm, hôn nhân không có hạnh phúc nên anh yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn với chị Nguyễn Thị H.

Về con chung: Vợ chồng không có con chung Về tài sản chung: Anh không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về nợ chung: Vợ chồng không có nợ chung.

Về phía bị đơn chị Nguyễn Thị H: Quá trình thụ lý, giải quyết vụ án Tòa án đã tiến hành tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng cho chị H theo quy định. Tuy nhiên chị H vắng mặt không có lý do chính đáng. Do chị H thường xuyên vắng nhà nên Tòa án đã xác minh thu thập chứng cứ, tiến hành làm việc với người thân chị H là ông Nguyễn Văn T1 (bố đẻ chị H) để giao thông báo thụ lý vụ án, thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp tiếp cận công khai chứng cứ và hoà giải, các văn bản tố tụng khác và yêu cầu ông T1 giao lại các văn bản tố tụng của Tòa án và thông báo cho chị H biết. Ông T1 trình bày: Chị H là con gái ông, chị H kết hôn với anh T từ tháng 12/2021, quá trình chung sống, vợ chồng anh T chị H sống không hạnh phúc, nguyên nhân do anh T thiếu quan tâm chăm sóc đến chị H nên chị H đã về sống với gia đình ông từ tháng 6/2023 tại xã T, vợ chồng chị H ly thân từ đó đến nay. Việc anh T xin ly hôn thì chị H có biết, ông đã nhận thay các văn bản tố tụng nhiều lần và đã thông báo lại cho chị H biết đề đến Tòa án làm việc nhưng do chị H bận đi làm không thể đến Toà được, quan điểm chị H và gia đình cũng đồng ý ly hôn với anh T và đề nghị Tòa án giải quyết vắng mặt. Về con chung, tài sản chung và nợ chung: không có.

Tại phiên tòa, nguyên đơn anh Lưu Văn T và bị đơn là chị Nguyễn Thị H đều vắng mặt. Hội đồng xét xử công bố đơn khởi kiện, bản tự khai của anh T; Biên bản làm việc với bố đẻ của chị H là ông Nguyễn Văn T1; Biên bản xác minh và thông qua các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và các đương sự, phát biểu ý kiến về việc giải quyết vụ án như sau:

Về tố tụng: Tòa án thụ lý đúng thẩm quyền, xác định quan hệ tranh chấp đúng quy định tại khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 và khoản 1 Điều 195 BLTTDS; Trong quá trình điều tra thu thập chứng cứ Thẩm phán đã chấp hành đúng quy định tại Điều 48 của Bộ luật Tố tụng dân sự. Việc thu thập chứng cứ, tống đạt đảm bảo quyền của đương sự. Việc tuân theo pháp luật của Hội đồng xét xử thực hiện đúng theo trình tự từ Điều 239 đến Điều 260 của Bộ luật Tố tụng dân sự. Việc chấp hành pháp luật của Thư ký phiên tòa được thực hiện đúng quy định tại Điều 51 của Bộ luật Tố tụng dân sự. Việc chấp hành pháp luật của đương sự: Nguyên đơn chấp hành đúng quyền và nghĩa vụ theo quy định tại các Điều 70, 71 của Bộ luật Tố tụng dân sự. Bị đơn chưa chấp hành đúng quyền và nghĩa vụ theo quy định tại các Điều 70, 72 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

Về nội dung: Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Điều 56 của Luật Hôn nhân và gia đình; Điều 147, 271 của Bộ luật Tố tụng dân sự, Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016, xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, xử cho anh Lưu Văn T được ly hôn chị Nguyễn Thị H.

Về con chung: Vợ chồng không có con chung Về tài sản chung và nợ chung: Không có, không yêu cầu giải quyết nên không xem xét Về án phí: Anh Lưu Văn T phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi xem xét các tài liệu có tại hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng: Vụ án có quan hệ pháp luật là “Tranh chấp về Hôn nhân và gia đình” quy định tại Khoản 1 Điều 28 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015; Nguyên đơn anh Lưu Văn T, sinh năm 1982; nơi thường trú: huyện H, tỉnh Nghệ An và bị đơn chị Nguyễn Thị H, sinh năm 1983, Nơi thường trú: xóm D, xã T, huyện N, tỉnh Nghệ An nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 39 BLTTDS.

Về sự vắng mặt của người tham gia tố tụng: Nguyên đơn anh Lưu Văn T vắng mặt có đơn xin xét xử vắng mặt; Bị đơn chị Nguyễn Thị H, Tòa án đã tống đạt hợp lệ quyết định đưa vụ án ra xét xử lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt không có lý do. Căn cứ Điều 227; khoản 1 Điều 228; Điều 238 Bộ luật tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vụ án theo thủ tục vắng mặt đối với nguyên đơn, bị đơn.

[2] Về nội dung: Tại phiên tòa, nguyên đơn anh Lưu Văn T vắng mặt nhưng quá trình giải quyết vụ án, anh T giữ nguyên yêu cầu được ly hôn chị Nguyễn Thị H; Về con chung không có, tài sản chung và nợ chung không có nên không yêu cầu giải quyết. Bị đơn chị Nguyễn Thị H quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên toà đều vắng mặt. Qua làm việc với ông Nguyễn Văn T1 là bố đẻ chị H thì ông T1 cũng xác định: Chị H kết hôn với anh T từ tháng 12/2021 có đăng ký kết hôn, quá trình chung sống, vợ chồng anh T chị H sống không có hạnh phúc, nguyên nhân do anh T thiếu quan tâm chăm sóc đến chị H nên chị H đã về sống với gia đình ông từ tháng 6/2023 tại xã T và ly thân từ đó đến nay. Việc anh T xin ly hôn thì chị H có biết, quan điểm chị H và gia đình cũng đồng ý ly hôn với anh T và đề nghị Tòa án giải quyết vắng mặt. Về con chung, tài sản chung và nợ chung: không có.

[3] Xét thấy: - Về quan hệ hôn nhân anh Lưu Văn T và chị Nguyễn Thị H kết hôn với nhau có đủ điều kiện kết hôn trên cơ sở tình yêu tự nguyện, có đăng ký kết hôn vào ngày 09/12/2021 tại UBND xã T, huyện N, tỉnh Nghệ An. Do đó, Hội đồng xét xử xác định quan hệ hôn nhân của anh T chị H chị là hợp pháp. Sau khi kết hôn, vợ chồng chung sống hạnh phúc được một thời gian thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân là do vợ chồng không hợp tính nhau, bất đồng quan điểm sống. Đến tháng 5/2023 thì vợ chồng đã sống ly thân cho đến nay. Như vậy, vợ chồng hiện tại không sống chung với nhau, không còn quan tâm, chăm sóc nhau là vi phạm nghiêm trọng quyền và nghĩa vụ của vợ, chồng theo quy định tại Điều 19 Luật Hôn nhân và gia đình, làm cho hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được, anh T yêu cầu được ly hôn chị H là có cơ sở. Do vậy, căn cứ vào Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình, cần chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn cho anh T được ly hôn chị Nguyễn Thị H.

- Về con chung: Anh Lưu Văn T và chị Nguyễn Thị H không có con chung nên Hội đồng xét xử không xem xét.

- Về tài sản chung và nợ chung: Anh Lưu Văn T không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.

- Về án phí: Anh Lưu Văn T phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định tại khoản 4 Điều 147 Bộ luật tố tụng Dân sự; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

[4] Về quan điểm giải quyết vụ án của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Nam Đàn tại phiên tòa là có căn cứ, đúng pháp luật nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ: Khoản 1 Điều 28; điềm a khoản 1 Điều 35; khoản 1 Điều 39; khoản 4 Điều 147; khoản 1, khoản 3 Điều 228; Điều 238; Điều 266; khoản 1 Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự; Điều 51, Điều 56 của Luật Hôn nhân và gia đình; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miến, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn anh Lưu Văn T.

1. Về quan hệ hôn nhân: Cho anh Lưu Văn T được ly hôn chị Nguyễn Thị H.

2. Về con chung: Anh Lưu Văn T và chị Nguyễn Thị H không có con chung.

3. Về tài sản chung: Đương sự không yêu cầu giải quyết.

4. Về án phí: Anh Lưu Văn T phải chịu 300.000 đồng án phí ly hôn sơ thẩm, nhưng được khấu trừ vào 300.000 đồng tiền tạm ứng án phí đã nộp tại Cục thi hành án dân sự huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An theo biên lai số 0005100 ngày 20/10/2023. Anh Lưu Văn T đã nộp đủ tiền án phí dân sự sơ thẩm.

5. Về quyền kháng cáo: Anh Lưu Văn T và chị Nguyễn Thị H vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

28
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp hôn nhân và gia đình số 45/2023/HNGĐ-ST

Số hiệu:45/2023/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Nam Đàn - Nghệ An
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành:29/12/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về