TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH NGHỆ AN
BẢN ÁN 320/2023/HNGĐ-ST NGÀY 29/09/2023 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH
Ngày 29 tháng 9 năm 2023, tại Trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Nghệ An mở phiên tòa để xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 226/2023/TLST-HNGĐ ngày 17 tháng 7 năm 2023 về “Tranh chấp hôn nhân và gia đình”. Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm số 273/2023/QĐXXST-HNGĐ ngày 18 tháng 8 năm 2023 giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Chị Dương Thị T, sinh năm 1988; địa chỉ: Thôn B, xã T, huyện T, tỉnh Nghệ An; vắng mặt và có đơn xin xử vắng mặt.
2. Bị đơn: Anh Nguyễn Đức T1, sinh năm 1991; địa chỉ cư trú trước khi xuất cảnh: Xóm P, xã N, huyện N, tỉnh Nghệ An; hiện đang ở: Cộng Hòa Liên Bang Đ; vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo đơn khởi kiện, bản tự khai nguyên đơn chị Dương Thị T trình bày: Chị và anh Nguyễn Đức T1 kết hôn với nhau trên tinh thần tự nguyện và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã N, huyện N, tỉnh Nghệ An vào ngày 07/01/2010. Sau 03 tháng kết hôn có nhiều mâu thuẫn dẫn đến tranh cãi và đã ly thân sau 03 tháng kết hôn. Tính đến nay, hai bên đã ly thân được 12 năm. Đến năm 2022 anh T1 đi xuất khẩu lao động tại Đức, thời gian đầu vợ chồng vẫn có liên lạc hỏi thăm nhau về con chung. Nay chị xét thấy tình cảm vợ chồng không còn, hôn nhân tồn tại chỉ là hình thức. Vì vậy, chị đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh Nguyễn Đức T1.
Về con chung: Chị và anh Nguyễn Đức T1 có 01 con chung là cháu Nguyễn Thảo L, sinh ngày 25/9/2010, hiện tại cháu L đang sống cùng với chị T. Ly hôn chị đề nghị Tòa án giao cháu L cho chị chăm sóc nuôi dưỡng tới khi cháu L đủ 18 tuổi, trưởng thành, về cấp dưỡng nuôi con chị không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Về tài sản chung, nợ chung: Chị và Nguyễn Đức T1 không có tài sản chung, nợ chung. Không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Đối với bị đơn là anh Nguyễn Đức T1: Do vợ chồng không liên lạc gì với nhau nên chị Dương Thị T không cung cấp được địa chỉ cụ thể của anh T1 ở Cộng hòa liên bang Đ. Theo chị T trình bày anh T1 vẫn thường xuyên liên lạc về với mẹ đẻ là bà Nguyễn Thị C; địa chỉ cư trú: Xóm P, xã N, huyện N, tỉnh Nghệ An và bà c biết địa chỉ cụ thể của anh T1 ở Cộng hòa liên bang Đ1; đề nghị Tòa án tiến hành xác minh, thu thập chứng cứ để làm căn cứ giải quyết vụ án theo quy định của pháp luật.
Sau khi thụ lý vụ án, Tòa án nhân dân tỉnh Nghệ An đã gửi văn bản cho bà Nguyễn Thị C (là mẹ đẻ của anh Nguyễn Đức T1) thông báo về việc Tòa án đang thụ lý, giải quyết vụ án để bà c thông báo cho anh T1 và đề nghị anh T1 nêu ý kiến về yêu cầu khởi kiện của chị T. Tòa án cũng đã niêm yết các văn bản tố tụng bao gồm Thông báo về việc thụ lý vụ án, Quyết định đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm, Quyết định hoãn phiên tòa tại nơi cư trú của anh T1 trước khi đi nước ngoài. Tuy nhiên, anh T1 không có ý kiến gì và vắng mặt trong suốt quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa sơ thẩm.
Đại diện Viện kiểm sát phát biểu ý kiến:
- Về tố tụng: Thẩm phán, Thư ký, Hội đồng xét xử đã thực hiện đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Nguyên đơn đã thực hiện đúng quyền, nghĩa vụ tố tụng theo quy định pháp luật, bị đơn không thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ tố tụng.
- Về quan điểm giải quyết vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình cho chị Dương Thị T và anh Nguyễn Đức T1 được ly hôn. về con chung: Giao cháu Nguyễn Thảo L, sinh ngày 25/9/2010 cho chị T trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng; về cấp dưỡng nuôi con: Chị T không yêu cầu cấp dưỡng nên không xem xét.
Về tài sản chung, nợ chung: Không xem xét do nguyên đơn không yêu cầu; về án phí: Chị T phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về thẩm quyền giải quyết vụ án: Chị Dương Thị T hiện cư trú tại Việt Nam làm đơn khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh Nguyễn Đức T1 hiện cư trú ở nước ngoài; trước xuất cảnh, anh T1 có địa chỉ cư trú tại xóm P, xã N, huyện N, tỉnh Nghệ An nên thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân tỉnh Nghệ An theo quy định tại Điều 37, Điều 40, Điều 469 của Bộ luật tố tụng dân sự; Điều 122, Điều 123, Điều 127 Luật hôn nhân và gia đình.
[2] Về thủ tục tố tụng: Anh Nguyễn Đức T1 hiện đang ở Cộng hòa liên bang Đức, không có địa chỉ cụ thể. Bà Nguyễn Thị C (là mẹ đẻ của anh T1) đã thông báo cho con trai về việc thụ lý vụ án của Tòa án nhân dân tỉnh Nghệ An. Tòa án cũng đã niêm yết các văn bản tố tụng liên quan theo quy định pháp luật đồng thời yêu cầu bà c cung cấp địa chỉ cụ thể của anh T1 ở Cộng hòa liên bang Đ nhưng bà C không cung cấp được. Tính đến ngày mở phiên tòa xét xử lần thứ hai, Tòa án không nhận được bất cứ văn bản nào của anh T1 trình bày về yêu cầu khởi kiện ly hôn của chị T nên được coi như trường hợp bị đơn cố tình giấu địa chỉ, từ chối khai báo, từ chối cung cấp những tài liệu cần thiết và vụ án thuộc trường hợp không tiến hành hòa giải được theo quy định tại khoản 1 Điều 207 của Bộ luật Tố tụng dân sự.
Nguyên đơn chị Dương Thị T vắng mặt và có đơn xin xử vắng mặt, bị đơn anh Nguyễn Đức T1 vắng mặt. Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 1 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành phiên tòa vắng mặt các đương sự.
[3] Xét nội dung vụ án và các ý kiến, yêu cầu của đương sự:
[3.1] Về quan hệ hôn nhân: Chị Dương Thị T và anh Nguyễn Đức T1 kết hôn với nhau trên cơ sở tự nguyện; có đăng ký kết hôn, là hôn nhân hợp pháp. Vợ chồng sống chung với nhau thời gian rất ngắn đã phát sinh mâu thuẫn, hai bên sống ly thân thời gian dài. Nay chị T có nguyện vọng được ly hôn với anh T1. Xét thấy, tình cảm vợ chồng giữa chị T và anh T1 không còn, hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng. Vì vậy, nếu kéo dài cuộc hôn nhân này thì mục đích hôn nhân không đạt được, cần chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, cho chị T được ly hôn với anh T1 là phù hợp Điều 56 của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014.
[3.2] Về con chung: Vợ chồng có 01 con chung là cháu Nguyễn Thảo L, sinh ngày 25/9/2010; hiện nay, cháu L đang ở với chị T. Ly hôn chị T đề nghị Tòa án giao cháu L cho chị trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc sau ly hôn. Xét thấy, nguyện vọng của chị T là chính đáng, phù hợp với nguyện vọng của con chung và điều kiện thực tế vì hiện nay anh T1 đang ở nước ngoài và cố tình giấu địa chỉ. về cấp dưỡng nuôi con, chị T chưa yêu cầu và anh T1 cũng chưa có ý kiến nên Hội đồng xét xử không xem xét.
[3.3] Về tài sản chung, nợ chung: Chị Dương Thị T không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không xem xét. Các bên có quyền khởi kiện đề nghị Tòa án giải quyết bằng một vụ án dân sự khác nếu có yêu cầu.
[4] Về án phí sơ thẩm: Nguyên đơn chị Dương Thị T phải chịu án phí Hôn nhân và Gia đình sơ thẩm theo quy định của pháp luật
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, khoản 3 Điều 35, điểm c khoản 1 Điều 37, Điều 40, khoản 1 Điều 207; điềm b khoản 2 Điều 227, khoản 1 Điều 228, Điều 469 và Điều 479 của Bộ luật Tố tụng dân sự;
Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83, Điều 84, Điều 122, Điều 123 và Điều 127 của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014; xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn chị Dương Thị T.
- Về quan hệ hôn nhân: Chị Dương Thị T được ly hôn với anh Nguyễn Đức T1.
- Về con chung: Giao 01 con chung là cháu Nguyễn Thảo L, sinh ngày 25/9/2010 cho chị Dương Thị T trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục cho đến khi cháu L đủ 18 tuổi, trưởng thành. Về cấp dưỡng nuôi con, chị Dương Thị T chưa yêu cầu nên Hội đồng xét xử không xem xét.
Sau khi ly hôn, anh Nguyễn Đức T1 có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung mà không ai được cản trở. Vì lợi ích mọi mặt của con, khi có lý do chính đáng hoặc có căn cứ theo quy định của pháp luật, theo yêu cầu của một hoặc các bên thì Tòa án có thể quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con và yêu cầu cấp dưỡng nuôi con.
- Về tài sản chung, nợ chung: Các bên có quyền khởi kiện đề nghị Tòa án giải quyết về tài sản chung và nợ chung bằng một vụ án dân sự khác nếu có yêu cầu.
2. Về án phí sơ thẩm: Căn cứ khoản 4 Điều 147 của Bộ luật Tố tụng dân sự; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án; buộc chị Dương Thị T phải chịu 300.000 (ba trăm nghìn) đồng án phí Hôn nhân và Gia đình sơ thẩm nhưng được khấu trừ 300.000 (ba trăm nghìn) đồng số tiền tạm ứng đã nộp tại Cục Thi hành án Dân sự tỉnh Nghệ An theo Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số: AA/2022/0004394 ngày 05 tháng 7 năm 2023.
3. Chị Dương Thị T có quyền kháng cáo bản án lên Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án; anh Nguyễn Đức T1 có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 01 tháng, kể từ ngày bản án được tống đạt hoặc niêm yết hợp lệ theo quy định của pháp luật.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 của Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 của Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 của Luật Thi hành án dân sự.
Bản án về tranh chấp hôn nhân và gia đình số 320/2023/HNGĐ-ST
Số hiệu: | 320/2023/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Nghệ An |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 29/09/2023 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về