Bản án về tranh chấp hôn nhân và gia đình số 317/2023/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH NGH AN

BẢN ÁN 317/2023/HNGĐ-ST NGÀY 29/09/2023 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH

Ngày 29 tháng 9 năm 2023, tại Trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Nghệ An mở phiên tòa để xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 178/2023/TLST-HNGĐ ngày 01 tháng 6 năm 2023 về “Tranh chấp hôn nhân và gia đình”. Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm số 271/2023/QĐXXST-HNGĐ ngày 16 tháng 8 năm 2023 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Bùi Thị S, sinh năm 1991; địa chỉ: Xóm F, xã T, huyện T, tỉnh Nghệ An; vắng mặt và có đơn xin xử vắng mặt.

2. B đơn: Anh Nguyễn Võ N, sinh năm 1989; địa chỉ cư trú trước khi xuất cảnh: Xóm F, xã T, huyện T, tỉnh Nghệ An; địa chỉ hiện nay: Đảo S; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện, bản tự khai nguyên đơn chị Bùi Thị S trình bày: Chị và anh Nguyễn Võ N kết hôn với nhau trên tinh thần tự nguyện và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã T, huyện T, tỉnh Nghệ An vào ngày 12/01/2010. Thời gian đầu tình cảm vợ chồng diễn ra bình thường. Năm 2014 anh N đi xuất khẩu lao động, thời gian đầu tình cảm vợ chồng cũng bình thường, nhưng đi được một năm thì anh N ít gọi điện về và không gửi tiền về lo cho con và gia đình, từ đó đến này xảy ra nhiều mâu thuẫn không thể hàn gắn. Tháng 8/2022 anh N có về nước, đến tháng 10/2022 thì anh lại đi xuất khẩu lao động tại đảo S. Trong khoảng thời gian anh N về nước thì tình cảm vợ chồng cũng không hàn gắn được. Nay chị thấy tình cảm vợ chồng không thể hàn gắn, nên chị yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh Nguyễn Võ N.

Về con chung: Chị và anh Nguyễn Võ N có 02 con chung là Võ Thị Huyền M, sinh ngày 30/11/2010 và Nguyễn Võ Thành T, sinh ngày 05/5/2012, hiện tại cháu M và cháu T đang ở cùng với chị. Ly hôn chị đề nghị Tòa án giao cháu M và cháu T cho chị trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng và không yêu cầu anh Nguyễn Võ N cấp dưỡng nuôi con. Đối với cháu Võ Thị Huyền M có họ khác với họ của bố, theo chị S trình bày do dòng họ bên chồng đặt tên cho con gái như vậy, chị cam đoan cháu M là con gái ruột của chị và anh N.

Về tài sản chung, nợ chung: Chị và Nguyễn Võ N không có tài sản chung, nợ chung. Không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Đối với bị đơn là anh Nguyễn Võ N: Do vợ chồng không liên lạc gì với nhau nên chị Bùi Thị S không cung cấp được địa chỉ cụ thể của anh N ở đảo S. Theo chị T1 trình bày anh N vẫn thường xuyên liên lạc về với mẹ đẻ là bà Nguyễn Thị C; địa chỉ cư trú: Xóm F, xã T, huyện T, tỉnh Nghệ An và bà C biết địa chỉ cụ thể của anh N ở đảo S; đề nghị Tòa án tiến hành xác minh, thu thập chứng cứ đề làm căn cứ giải quyết vụ án theo quy định của pháp luật.

Sau khi thụ lý vụ án, Tòa án nhân dân tỉnh Nghệ An đã gửi văn bản cho bà Nguyễn Thị C (là mẹ đẻ của anh Nguyễn Võ N) thông báo về việc Tòa án đang thụ lý, giải quyết vụ án để bà C thông báo cho anh N và đề nghị anh N nêu ý kiến về yêu cầu khởi kiện của chị S. Tòa án cũng đã niêm yết các văn bản tố tụng bao gồm Thông báo về việc thụ lý vụ án, Quyết định đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm, Quyết định hoãn phiên tòa tại nơi cư trú của anh N trước khi đi nước ngoài. Tuy nhiên, anh N không có ý kiến gì và vắng mặt trong suốt quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa sơ thẩm.

Đại diện Viện kiểm sát phát biểu ý kiến:

- Về tố tụng: Thẩm phán, Thư ký, Hội đồng xét xử đã thực hiện đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Nguyên đơn đã thực hiện đúng quyền, nghĩa vụ tố tụng theo quy định pháp luật, bị đơn không thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ tố tụng.

- Về quan điểm giải quyết vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình cho chị Bùi Thị S và anh Nguyễn Võ N được ly hôn. Về con chung: Giao cháu Võ Thị Huyền M, sinh ngày 30/11/2010 và Nguyễn Võ Thành T, sinh ngày 05/5/2012 cho chị S trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng; về cấp dưỡng nuôi con: Chị S không yêu cầu cấp dưỡng nên không xem xét.

Về tài sản chung, nợ chung: Không xem xét do nguyên đơn không yêu cầu; về án phí: Chị S phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về thẩm quyền giải quyết vụ án: Chị Bùi Thị S hiện cư trú tại Việt Nam làm đơn khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh Nguyễn Võ N hiện cư trú ở nước ngoài; trước xuất cảnh, anh N có địa chỉ cư trú tại xóm F, xã T, huyện T, tỉnh Nghệ An nên thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân tỉnh Nghệ An theo quy định tại Điều 37, Điều 40, Điều 469 của Bộ luật tố tụng dân sự; Điều 122, Điều 123, Điều 127 Luật hôn nhân và gia đình.

[2] Về thủ tục tố tụng: Anh Nguyễn Võ N hiện đang ở đảo S, không có địa chỉ cụ thể. Bà Nguyễn Thị C (là mẹ đẻ của anh N) đã thông báo cho con trai về việc thụ lý vụ án của Tòa án nhân dân tỉnh Nghệ An. Tòa án cũng đã niêm yết các văn bản tố tụng liên quan theo quy định pháp luật đồng thời yêu cầu bà C cung cấp địa chỉ cụ thể của anh N ở đảo S nhưng bà C không cung cấp được. Tính đến ngày mở phiên tòa xét xử lần thứ hai, Tòa án không nhận được bất cứ văn bản nào của anh N trình bày về yêu cầu khởi kiện ly hôn của chị S nên được coi như trường hợp bị đơn cố tình giấu địa chỉ, từ chối khai báo, từ chối cung cấp những tài liệu cần thiết và vụ án thuộc trường hợp không tiến hành hòa giải được theo quy định tại khoản 1 Điều 207 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

Nguyên đơn chị Bùi Thị S vắng mặt và có đơn xin xử vắng mặt, bị đơn anh Nguyễn Võ N vắng mặt. Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 1 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành phiên tòa vắng mặt các đương sự.

[3] Xét nội dung vụ án và các ý kiến, yêu cầu của đương sự:

[3.1] Về quan hệ hôn nhân: Chị Bùi Thị S và anh Nguyễn Võ N kết hôn với nhau trên cơ sở tự nguyện; có đăng ký kết hôn, là hôn nhân hợp pháp. Vợ chồng sống chung hạnh phúc một thời gian thì đã phát sinh mâu thuẫn, về nguyên nhân mâu thuẫn vợ chồng do tính tình không hợp, anh N đang sinh sống làm việc tại đảo S, chị S ở Việt Nam, hai bên không còn liên lạc, quan tâm nhau, tình cảm vợ chồng phai nhạt dần. Chị S có nguyện vọng được ly hôn với anh N. Xét thấy, tình cảm vợ chồng giữa chị S và anh N không còn, hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng. Vì vậy, nếu kéo dài cuộc hôn nhân này thì mục đích hôn nhân không đạt được. Cần chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, cho chị S được ly hôn với anh N là phù hợp Điều 56 của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014.

[3.2] Về con chung: Vợ chồng có 02 con chung là Võ Thị Huyền M, sinh ngày 30/11/2010 và Nguyễn Võ Thành T, sinh ngày 05/5/2012; hiện nay, cháu M và cháu T đang ở với chị S. Ly hôn chị S đề nghị Tòa án giao cháu M và cháu T cho chị trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc sau ly hôn. Xét thấy, nguyện vọng của chị S là chính đáng, phù hợp với nguyện vọng của con chung và điều kiện thực tế vì hiện nay anh N đang ở nước ngoài và cố tình giấu địa chỉ. Về cấp dưỡng nuôi con, chị S chưa yêu cầu và anh N cũng chưa có ý kiến nên Hội đồng xét xử không xem xét.

Đối với cháu Võ Thị Huyền M, có họ khác với họ của anh N, theo chị S trình bày cháu M khác với họ bố là do phong tục dòng họ bên chồng đặt cho con gái như vậy. Chị cam đoan cháu Võ Thị Huyền M là con gái ruột của chị và anh N. Đây là con chung trong thời kỳ hôn nhân, chị S phải chịu trách nhiệm đối với trình bày của mình.

[3.3] Về tài sản chung, nợ chung: Chị Bùi Thị S không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không xem xét. Các bên có quyền khởi kiện đề nghị Tòa án giải quyết bằng một vụ án dân sự khác nếu có yêu cầu.

[4] Về án phí sơ thẩm: Nguyên đơn chị Bùi Thị S phải chịu án phí Hôn nhân và Gia đình sơ thẩm theo quy định của pháp luật

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, khoản 3 Điều 35, điểm c khoản 1 Điều 37, Điều 40, khoản 1 Điều 207; điềm b khoản 2 Điều 227, khoản 1 Điều 228, Điều 469 và Điều 479 của Bộ luật Tố tụng dân sự;

Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83, Điều 84, Điều 122, Điều 123 và Điều 127 của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014; xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn chị Bùi Thị S.

- Về quan hệ hôn nhân: Chị Bùi Thị S được ly hôn với anh Nguyễn Võ N.

- Về con chung: Giao 02 con chung là Vồ Thị Huyền M. sinh ngày 30/11/2010 và Nguyễn Võ Thành T, sinh ngày 05/5/2012 cho chị Bùi Thị S trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục cho đến khi cháu M và cháu T đủ 18 tuổi, trưởng thành, về cấp dưỡng nuôi con, chị Bùi Thị S chưa yêu cầu nên Hội đồng xét xử không xem xét.

Sau khi ly hôn, anh Nguyễn Võ N có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung mà không ai được cản trở. Vì lợi ích mọi mặt của con, khi có lý do chính đáng hoặc có căn cứ theo quy định của pháp luật, theo yêu cầu của một hoặc các bên thì Tòa án có thể quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con và yêu cầu cấp dưỡng nuôi con.

- Về tài sản chung, nợ chung: Các bên có quyền khởi kiện đề nghị Tòa án giải quyết về tài sản chung và nợ chung bằng một vụ án dân sự khác nếu có yêu cầu.

2. Về án phí sơ thẩm: Căn cứ khoản 4 Điều 147 của Bộ luật Tố tụng dân sự; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án; buộc chị Bùi Thị S phải chịu 300.000 (ba trăm nghìn) đồng án phí Hôn nhân và Gia đình sơ thẩm nhưng được khấu trừ 300.000 (ba trăm nghìn) đồng số tiền tạm ứng đã nộp tại Cục Thi hành án Dân sự tỉnh Nghệ An theo Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số: 0012858 ngày 12 tháng 5 năm 2023.

3. Chị Bùi Thị S có quyền kháng cáo bản án lên Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án; anh Nguyễn Võ N có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 01 tháng, kể từ ngày bản án được tống đạt hoặc niêm yết hợp lệ theo quy định của pháp luật.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 của Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 của Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 của Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

52
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp hôn nhân và gia đình số 317/2023/HNGĐ-ST

Số hiệu:317/2023/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Nghệ An
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành:29/09/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về