Bản án về tranh chấp hôn nhân và gia đình số 28/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ V, TỈNH PHÚ THỌ

BẢN ÁN 28/2022/HNGĐ-ST NGÀY 25/07/2022 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH

Ngày 25 tháng 7 năm 2022 tại Trụ sở Tòa án nhân dân thành phố V, tỉnh Phú Thọ xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 210/2022/TLST-HNGĐ ngày 30/5/2022 về việc “Tranh chấp hôn nhân và gia đình”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 35/2022/QĐXXST - HNGĐ ngày 08 tháng 7 năm 2022 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Chị Bùi Thị N, sinh năm 1985

Bị đơn: Anh Nguyễn Kiều Q, sinh năm 1985 Đều ĐKHKTT: Khu 10, xã K, thành phố V, tỉnh Phú Thọ.

Chỗ ở hiện nay của chị N: Thôn Kh, xã Đ, huyện S, tỉnh Vĩnh Phúc.

(Chị N, anh Q đều có mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện ngày 11/5/2022, bản tự khai ngày 8/6/2022, biên bản phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và tại phiên tòa nguyên đơn chị Nguyễn Thị N trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Chị N và anh Nguyễn Kiều Q đăng ký kết hôn với nhau ngày 01/10/2012 tại UBND xã K, thành phố V, tỉnh Phú Thọ. Trước khi kết hôn, hai bên có được tự nguyện tìm hiểu không ai bị ép buộc. Sau khi kết hôn, hai vợ chồng sống chung sống cùng gia đình anh Q, cuộc sống vợ chồng hạnh phúc một thời gian. Đến năm 2021 thì vợ chồng có phát sinh mâu thuẫn nguyên nhân do anh Q không quan tâm gì đến gia đình, cuộc sồng vợ chồng không có tiếng nói chung do vậy hai bên thường xuyên xảy ra cãi nhau. Chị N đã chuyển ra khỏi nhà anh Q và về nhà bố mẹ đẻ ở Thôn Kh, xã Đ, huyện S, tỉnh Phú Thọ từ tháng 5/2022, hai bên không còn quan tâm đến nhau nữa. Nay chị N xét thấy tình cảm vợ chồng thực sự không còn nên chị đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh Nguyễn Kiều Q.

Về con chung: Chị N trình bày vợ chồng có 01 con chung là cháu Nguyễn Thu H, sinh ngày 14/04/2013. Khi ly hôn, chị N xin được trực tiếp nuôi cháu H và không yêu cầu anh Q phải cấp dưỡng tiền nuôi con chung.

Về tài sản chung, nợ chung, công sức đóng góp: Chị N trình bày vợ chồng không có, khi ly hôn chị không có đề nghị gì.

Tại bản tự khai ngày 09/6/2022, biên bản phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và tại phiên tòa bị đơn anh Nguyễn Kiều Q trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Anh Q xác nhận về thời gian, địa điểm đăng ký kết hôn và quá trình mâu thuẫn của vợ chồng như chị N trình bày là đúng. Tuy nhiên anh Q mong muốn vợ chồng hòa giải đoàn tụ để cùng nhau nuôi dậy con chung.

Anh Q đề nghị Tòa án cho anh thời gian để vợ chồng hòa giải mâu thuẫn đến ngày 27/6/2022. Nếu sau đó chị N vẫn kiên quyết xin ly hôn thì anh Q cũng nhất trí ly hôn với chị N.

Về con chung: Anh Q trình bày vợ chồng có 01 con chung là cháu Nguyễn Thu H, sinh ngày 14/04/2013. Khi ly hôn, anh Q cũng có nguyện vọng được nuôi con nhưng anh tôn trọng nguyện vọng của con. Nếu cháu H xin ở với anh thì anh Q không đề nghị chị N cấp dưỡng tiền nuôi con chung.

Về tài sản chung, nợ chung, công sức đóng góp: Anh Q trình bày vợ chồng không có, ly hôn anh không có đề nghị gì.

Tòa án đã tiến hành mở phiên họp công khai chứng cứ và hòa giải, các đương sự không ý kiến thắc mắc gì về mặt chứng cứ nhưng không thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án.

Tại phiên tòa, chị N và anh Q đều xác định tình cảm vợ chồng thực sự không còn, mục đích hôn nhân không đạt được nên cả hai đều nhất trí thuận tình ly hôn. Về con chung cả hai đều xin được nuôi con chung, chị N cho rằng mức thu nhập bình quân của chị làm là 8.000.000đồng/tháng, còn anh Q có mức thu nhập bình quân là 13.000.000đ/tháng.

Quan điểm của Đại diện Viện kiểm sát:

Về việc tuân theo pháp luật: Quá trình thụ lý, giải quyết vụ án Thẩm phán đã thực hiện đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Tại phiên tòa Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa thực hiện đúng quy định của pháp luật, không có vi phạm gì. Các đương sự: Nguyên đơn, bị đơn đã chấp hành đúng quyền và nghĩa vụ theo đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.

Về nội dung vụ án: Tại phiên tòa chị N và anh Q đều nhất trí thuận tình ly hôn. Do vậy đề nghị Hội đồng xét xử công nhận sự thuận tình ly hôn giữa chị Bùi Thị N và anh Nguyễn Kiều Q.

Về con chung: Đề nghị giao cho anh Q trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng cháu Nguyễn Thu H, sinh ngày 14/04/2013. Chị N không phải cấp dưỡng nuôi con chung cùng anh Q vì anh Q không yêu cầu.

Về tài sản chung, nợ chung, công sức đóng góp: Chị N và anh Q xác định vợ chồng không có nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

Về án phí: Chị N phải chịu án phí Hôn nhân gia đình sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng:

Ngày 11/05/2022, chị Bùi Thị N nộp đơn khởi kiện về việc ly hôn với anh Nguyễn Kiều Q, đây là tranh chấp Hôn nhân và gia đình được Tòa án nhân dân thành phố V, tỉnh Phú Thọ thụ lý, giải quyết là đúng thẩm quyền theo quy định tại Điều 28, Điều 35, Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.

[2] Về quan hệ hôn nhân:

Chị Bùi Thị N và anh Nguyễn Kiều Q đăng ký kết hôn với nhau ngày 01/10/2012 tại UBND xã K, thành phố V, tỉnh Phú Thọ. Đây là quan hệ hôn nhân hợp pháp được pháp luật tôn trọng và bảo vệ. Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống một thời gian cùng bố mẹ đẻ anh Q tại xã K, thành phố V, tỉnh Phú Thọ, tình cảm vợ chồng bước đầu hòa thuận, hạnh phúc. Cả chị N và anh Q đều xác nhận quá trình chung sống vợ chồng có mâu thuẫn từ năm 2021. Chị N đã bỏ về nhà bố mẹ đẻ để ở từ tháng 5/2022, vợ chồng sống ly thân từ đó cho đến nay, không ai còn quan tâm đến nhau nữa. Phía chị N xét thấy tình cảm vợ chồng không còn nữa nên chị N đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn anh Q. Quá trình giải quyết vụ án anh Q đề nghị Tòa án cho anh thời gian để vợ chồng hòa giải mâu thuẫn. Đến ngày 27/6/2022, anh Q không có mặt tại Tòa án để làm việc. Căn cứ vào kết quả xác minh tình trạng hôn nhân tại khu hành chính nơi anh chị cư trú thấy phù hợp với lời trình bày của chị N. Tại phiên tòa anh Q nhận thấy tình cảm vợ chồng thực không còn, cuộc sống chung không thể hàn gắn được nên anh Q và chị N đều nhất trí thống nhất thuận tình ly hôn.

Như vậy có thể thấy đời sống chung vợ chồng giữa chị N và anh Q thực tế không tồn tại, mâu thuẫn không có khả năng khắc phục, cả hai bên đều xác định không còn tình cảm và mong muốn được ly hôn. Vì vậy, Hội đồng xét xử cần công nhận sự thuận tình ly hôn giữa chị N và anh Q là phù hợp với Điều 55 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.

[3] Về con chung:

Chị N và anh Q có một con chung là Nguyễn Thu H, sinh ngày 14/04/2013. Trong quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa hôm nay, chị N và anh Q đều đề nghị được nuôi con chung, tuy nhiên phía anh Q cũng tôn trọng theo nguyện vọng của con chung nếu cháu muốn ở với ai thì anh cũng đồng ý. Xét về điều kiện chăm sóc và nuôi dạy con chung của hai bên đương sự thấy rằng: Từ khi chị N bỏ nhà về bố mẹ đẻ ở thỉnh thoảng có đến thăm và đón con về chơi nhưng cháu H không muốn theo mẹ. Tại phiên tòa mẹ đẻ của anh Q là bà Lê Thị Ch cũng khẳng định nhiều lần chị N có về nhà chơi nhưng không vào nhà mà chỉ đứng ngoài cửa gọi cháu H ra ngoài xem có muốn đi cùng mẹ không và tại phiên tòa chị N cũng thừa nhận có lần về đón con nhưng cháu không đi nên chị không đón nữa. Gia đình bà cũng mong muốn chị N quay lại với anh Q để vợ chồng chung sống nuôi dậy con chung trưởng thành. Tuy nhiên phía chị N lại cho rằng từ khi chị đi khỏi nhà, chị có quay lại đón con nhưng anh Q không cho chị đón. Quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa hôm nay chị N cũng không cung cấp được tài liệu chứng cứ gì chứng minh về việc anh Q không cho chị đón con. Hiện chị N làm công nhân hàng ngày vẫn phải đi làm ca và hiện chị đang ở nhờ nhà bố mẹ đẻ ở xã Đ, huyện S, tỉnh V, còn đối với anh Q công việc của anh là công nhân, mức thu nhập của anh cao hơn chị N, có thời gian, điều kiện chăm sóc con. Mặt khác cháu Nguyễn Thu H hiện nay đã trên 7 tuổi và có nguyện vọng ở với bố. Hơn nữa, từ khi vợ chồng sống ly thân cho đến nay cháu H vẫn sống ổn định với anh Q. Do vậy Hội đồng xét xử xét thấy để đảm bảo quyền lợi cho cháu H vì vậy, căn cứ Điều 81 Luật Hôn nhân và gia đình, giao con chung là Nguyễn Thu H, sinh ngày 14/04/2013 cho anh Nguyễn Kiều Q có trách nhiệm trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục theo nguyện vọng của con.

Đối với việc cấp dưỡng nuôi con anh Q tự nguyện không yêu cầu nên chị N không phải cấp dưỡng nuôi con chung cùng anh Q.

[4] Về tài sản chung, nợ chung, công sức đóng góp: Chị N và anh Q đều xác định vợ chồng không có, khi ly hôn hai bên đều không có đề nghị gì là phù hợp nên cần chấp nhận.

[5] Về án phí: Chị N phải nộp tiền án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[6] Các đương sự được quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; khoản 4 Điều 147; Điều 271; Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự.

Căn cứ Điều 55, 81, 82, 83 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014.

Căn cứ khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Xử:

1.Về quan hệ hôn nhân: Công nhận sự thuận tình ly hôn giữa chị Bùi Thị N đối với anh Nguyễn Kiều Q.

2. Về con chung: Giao cho anh Nguyễn Kiều Q được trực tiếp chăm sóc và nuôi dưỡng con chung là cháu Nguyễn Thu H, sinh ngày 14/04/2013 đến khi cháu H thành niên. Chị N không phải cấp dưỡng tiền nuôi con chung cùng anh Q vì anh Q tự nguyện không yêu cầu. Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

3. Về tài sản chung, nợ chung, công sức đóng góp: Chị N và anh Q đều xác định vợ chồng không có, nên HĐXX không xem xét giải quyết.

4. Về án phí: Chị Bùi Thị N phải nộp 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) tiền án phí Hôn nhân và gia đình sơ thẩm. Xác nhận chị N đã nộp 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) tiền tạm ứng án phí theo Biên lai thu số: AA/2020/0009321 ngày 25/5/2022 tại Chi cục thi hành án dân sự thành phố V, tỉnh Phú Thọ.

5. Về quyền kháng cáo: Các đương sự có mặt được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Phú Thọ xét xử phúc thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

152
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp hôn nhân và gia đình số 28/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:28/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Việt Trì - Phú Thọ
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 25/07/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về