Bản án về tranh chấp hôn nhân và gia đình số 253/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN BẮC TỪ LIÊM, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 253/2022/HNGĐ-ST NGÀY 12/07/2022 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH

Ngày 12 tháng 7 năm 2022 tại Trụ sở Tòa án nhân dân quận Bắc Từ Liêm, thành phố Hà Nội xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 91/2022/TLST- HNGĐ ngày 28 tháng 3 năm 2022 về tranh chấp “Hôn nhân và gia đình”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 25/2022/QĐXXST-HNGĐ ngày 16 tháng 6 năm 2022, Quyết định hoãn phiên tòa số 28/2022/QĐST-HPT ngày 29 tháng 6 năm 2022 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Bùi Thị Vân A, sinh năm 19XX;

Địa chỉ: PX BY tập thể in tiền, tổ dân phố H Z, phường C N 1, quận B T L, TP Hà Nội. (Có mặt tại phiên tòa)

2. Bị đơn: Anh Nguyễn Quang H, sinh năm 19XX;

Địa chỉ: số X ngách Y/Z đường P V Đ, tổ dân phố Đ 1, phường C N 2, quận B T L, TP Hà Nội. (Vắng mặt tại phiên tòa)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện xin ly hôn đề ngày 20/01/2022 và các lời khai trong quá trình tham gia tố tụng tại Tòa án nguyên đơn chị Bùi Thị Vân A trình bày:

Chị Bùi Thị Vân A xây dựng gia đình với anh Nguyễn Quang H có đăng ký kết hôn ngày 19/10/2004 tại UBND xã Cổ Nhuế, huyện Từ Liêm, TP Hà Nội (Nay là phường Cổ Nhuế 1, quận Bắc Từ Liêm, TP Hà Nội). Sau khi cưới, vợ chồng chị sinh sống tại địa chỉ số X ngõ Y/Z đường P V Đ, phường C N 2, quận B T L, TP Hà Nội. Vợ chồng chị chung sống bình thường được 2 năm đầu sau đó H thường xuyên say rượu, đánh đập chị. Năm 2008, sau khi sinh cháu đầu chị đã phải bỏ về nhà mẹ đẻ sinh sống. Nhưng vì thương con và hy vọng anh H sẽ thay đổi nên năm 2009 chị đã quay về sống cùng với anh H và có thêm cháu thứ hai. Tuy nhiên, anh H vẫn không thay đổi, vẫn chửi bới, đánh đâp chị nên tháng 7/2012 chị và các con đã về nhà mẹ đẻ chị sinh sống. Vợ chồng chị đã ly thân 10 năm nay. Chị không còn tình cảm với anh H, đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh H.

Về con chung: vợ chồng chị có 2 con chung là cháu Nguyễn Quang M, sinh ngày 30/4/20XX và cháu Nguyễn Bảo N, sinh ngày 25/11/20XX. Khi ly hôn, chị có nguyện vọng được nuôi cả 2 con. Trong quá trình ly thân 10 năm với anh H, chị là người trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng các cháu. Anh H không hỏi han hay có trách nhiệm gì với các con chị. Chị yêu cầu anh H cấp dưỡng nuôi các con chung là 3 triệu đồng/tháng, với mỗi con là 1,5 triệu đồng cho đến khi các con chung đủ 18 tuổi hoặc có sự thay đổi khác. Hiện chị đang làm tại nhà máy in tiền quốc gia, thu nhập khoảng 12 triệu đồng/tháng. Chị đã nộp xác nhận lương và sao kê ngân hàng cho Tòa án. Về chỗ ở sau ly hôn, chị và các con sẽ ở cùng với bố mẹ chị tại tập thể in tiền, diện tích nhà 120m2. Bố mẹ chị tạo mọi điều kiện tốt nhất về chỗ ở cũng như hỗ trợ chị chăm sóc các con.

Về tài sản chung và nợ chung: Chị và anh H không có gì nên không yêu cầu Tòa giải quyết.

Tại biên bản ghi lời khai ngày 25/5/2022, bị đơn anh Nguyễn Quang H trình bày:

Anh Nguyễn Quang H và chị Bùi Thi Vân A xây dựng gia đình có đăng ký kết hôn tại UBND xã Cổ Nhuế, huyện Từ Liêm, TP Hà Nội ngày 19/10/2004. Sau khi cưới, vợ chồng anh ở cùng với bố mẹ anh tại địa chỉ số X ngách Y/Z P V Đ. Quá trình chung sống, anh và chị Vân A chung sống bình thường, hạnh phúc được 2 đến 3 năm sau đó phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân do chị Vân A đi làm đêm, uống rượu, nhậu nhẹt anh không nói được. Anh đã gặp gia đình bên ngoại, nói chuyện, góp ý với chị Vân A nhưng chị Vân A không thay đổi. Năm 2008, chị Vân A bỏ về nhà đẻ sống, sau đó lại quay về sống cùng anh. Vợ chồng anh lại có thêm cháu thứ hai là Nguyễn Bảo N, sinh năm 20XX. Sau khi có cháu thứ hai, chị Vân A vẫn đi đêm, nhậu nhẹt, anh nói không được nên vợ chồng anh có đánh chửi nhau. Chị Vân A bỏ về nhà mẹ đẻ, anh và chị Vân A sống ly thân từ đó cho đến nay. Anh theo đạo Công giáo, các cô bên đạo, các dì, các cô anh lên nhà chị Vân A nói chuyện, hòa giải, bảo chị Vân A về nhưng chị Vân A nhất quyết không về sống chung với anh. Anh không còn tình cảm với chị Vân A và cũng không thể sống chung với chị Vân A. Tuy nhiên, do anh theo đạo nên anh không đồng ý ly hôn.

Về con chung: Anh và chị Vân A có 02 con chung là cháu Nguyễn Quang M, sinh ngày 30/4/20XX và cháu Nguyễn Bảo N, sinh ngày 25/11/20XX. Hai con đang ở cùng với chị Vân A. Trường hợp giải quyết ly hôn, anh muốn nuôi 1 con chung, cháu nào cũng được, không ai phải cấp dưỡng nuôi con cho ai. Hiện anh đang làm công nhân nhà máy in tiền, thu nhập khoảng 6 triệu đồng/tháng.

Về tài sản chung và nợ chung: Anh và chị Vân A không có gì.

Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã triệu tập hợp lệ anh Nguyễn Quang H nhưng anh H không lên Tòa án làm việc.

Tại phiên tòa:

- Nguyên đơn chị Bùi Thị Vân A vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện và đề nghị Tòa án xử cho chị được ly hôn với anh Nguyễn Quang H và xin nuôi 2 con chung là cháu Nguyễn Quang M, sinh ngày 30/4/20XX và cháu Nguyễn Bảo N, sinh ngày 25/11/20XX. Chị yêu cầu anh H cấp dưỡng nuôi các con chung là 3.000.000 đồng/tháng/01 con cho đến khi các con chung đủ 18 tuổi hoặc có sự thay đổi khác.

- Bị đơn anh Nguyễn Quang H không có mặt tại phiên tòa nên không có ý kiến.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Bắc Từ Liêm phát biểu ý kiến:

- Qua kiểm sát việc giải quyết vụ án từ khi thụ lý vụ án đến thời điểm đưa vụ án ra xét xử thấy rằng Thẩm phán đã chấp hành đúng quy định của Điều 48 Bộ luật tố tụng Dân sự trong quá trình giải quyết vụ án.

- Việc tuân theo pháp luật của Hội đồng xét xử, Thư ký Tòa án tại phiên tòa: Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa đã thực hiện đúng các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự về phiên tòa sơ thẩm. Các quy định về phiên tòa, thủ tục bắt đầu phiên tòa, tranh tụng đều được Hội đồng xét xử thực hiện theo đúng quy định tại Chương 14 Bộ luật tố tụng dân sự.

- Việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng: Nguyên đơn thực hiện đúng, bị đơn không thực hiện các quy định tại Điều 70, 71, 72, 234 của Bộ luật tố tụng dân sự về quyền và nghĩa vụ của mình.

- Ý kiến về việc giải quyết vụ án:

+ Chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị Bùi Thị Vân A với anh Nguyễn Quang H;

+ Giao 02 con chung là cháu Nguyễn Quang M, sinh ngày 30/4/20XX và cháu Nguyễn Bảo N, sinh ngày 25/11/20XX cho chị Vân A nuôi dưỡng, việc cấp dưỡng nuôi con chung đề nghị Hội đồng xét xử xem xét;

+ Tài sản chung, công nợ chung: Không;

+ Án phí: Chị Vân A phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa trên cơ sở xem xét đầy đủ các tài liệu, chứng cứ, lời trình bày của các đương sự và ý kiến của Kiểm sát viên, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng:

- Chị Bùi Thị Vân A và anh Nguyễn Quang H đăng ký kết hôn ngày 19/10/2004 tại UBND xã Cổ Nhuế, huyện Từ Liêm, TP Hà Nội (Nay là phường Cổ Nhuế 1, quận Bắc Từ Liêm, TP Hà Nội) có tìm hiểu, có tự nguyện, do đó đây là hôn nhân hợp pháp. Anh Nguyễn Quang H đang sinh sống tại địa chỉ số X ngách Y/Z P V Đ, tổ dân phố Đ 1, phường C N 2, quận B T L, TP Hà Nội nên thẩm quyền giải quyết vụ án thuộc về Tòa án nhân dân quận Bắc Từ Liêm theo quy định tại Điều 28, khoản 1 điều 35, khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng Dân sự.

- Về việc xét xử vắng mặt bị đơn là anh Nguyễn Quang H: Anh Nguyễn Quang H đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhưng vắng mặt lần thứ hai tại phiên tòa mà không có lý do. Căn cứ Điều 227, Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt anh H.

[2] Về nội dung:

Về tình cảm: Chị Bùi Thị Vân A và anh Nguyễn Quang H đăng ký kết hôn ngày 19/10/2004 tại UBND xã Cổ Nhuế, huyện Từ Liêm, TP Hà Nội (Nay là phường Cổ Nhuế 1, quận Bắc Từ Liêm, TP Hà Nội) do đó đây là hôn nhân hợp pháp. Anh chị chung sống hạnh phúc được 2 năm đầu sau đó phát sinh mâu thuẫn. Theo chị Vân A trình bày nguyên nhân mâu thuẫn là do anh H rượu chè, đánh đập chị còn anh H trình bày mâu thuẫn là do chị Vân A thường xuyên đi đêm, rượu chè, anh không nói được. Hai anh chị sống ly thân cách đây 10 năm. Cả chị Vân A và anh H đều xác định vợ chồng không còn tình cảm và không thể sống chung. Lý do anh H không đồng ý ly hôn với chị Vân A là do anh theo đạo công giáo.

Tổng hợp các lời khai, chứng cứ mà các đương sự nêu ra và căn cứ vào kết quả xác minh tại chính quyền địa phương nơi cư trú cung cấp: “Về mâu thuẫn cụ thể của vợ chồng chị Bùi Thị Vân A và anh Nguyễn Quang H địa phương không nắm được vì vợ chồng anh chị không hòa giải qua tổ dân phố. Chị Vân A không sống cùng anh H từ năm 2010 cho đến nay”, Hội đồng xét xử nhận thấy: Chị Vân A và anh H là vợ chồng nhưng tình cảm vợ chồng không còn, không cùng nhau hướng tới xây dựng cuộc sống chung, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được. Chị Vân A xin ly hôn với anh H là có căn cứ nên căn cứ Điều 56 của Luật Hôn nhân và gia đình chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị Vân A đối với anh H.

Về con chung: Chị Bùi Thị Vân A và anh Nguyễn Quang H có 02 con chung là cháu Nguyễn Quang M, sinh ngày 30/4/20XX và cháu Nguyễn Bảo N, sinh ngày 25/11/20XX. Hai cháu hiện đang ở cùng với chị Vân A. Khi ly hôn, chị Vân A có nguyện vọng nuôi các con chung còn anh H có nguyện vọng nuôi 1 con chung, cháu nào cũng được. Tòa án nhân dân quận Bắc Từ Liêm đã yêu cầu các đương sự cung cấp các tài liệu chứng cứ về điều kiện nuôi con tuy nhiên anh H không cung cấp. Hội đồng xét xử thấy rằng chị Vân A đang ở ổn định cùng với hai con trên nhà đất của bố mẹ chị Vân A. Để đảm bảo quyền lợi của con chung, căn cứ vào điều kiện nuôi dưỡng cụ thể, điều kiện nuôi con của chị Vân A tốt hơn và để các cháu ổn định nơi ăn ở, học tập nên giao cháu M và cháu N cho chị Vân A trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng. Điều này cũng phù hợp với nguyện vọng của 02 cháu muốn được sống cùng mẹ. Về việc cấp dưỡng nuôi con, anh H có mức thu nhập là 6.000.000 (Sáu triệu đồng)/tháng. Chị Vân A yêu cầu anh H cấp dưỡng nuôi con đối với mỗi con chung là 3.000.000 đồng/tháng/1 con chung là chưa phù hợp nên không được chấp nhận, chỉ có cơ sở chấp nhận buộc anh H cấp dưỡng nuôi con đối với mỗi con chung là 1.500.000 đồng/tháng/1 con chung. Anh H được quyền gặp gỡ, chăm sóc và giáo dục con chung mà không ai được ngăn cản.

Về tài sản chung, nợ chung: Đương sự xác định không có gì chung và không yêu cầu giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét trong vụ án này.

Về án phí: Chị Bùi Thị Vân A phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào các Điều 56, 81, 82, 83 Luật hôn nhân gia đình năm 2014;

Căn cứ vào Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; Điều 39; Điều 144; Điều 147; Điều 227; Điều 228; Điều 271; Điều 273 Bộ luật tố tụng Dân sự;

Căn cứ Nghị quyết 326/2016/UBTVQH ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Xử:

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện về việc xin ly hôn của chị Bùi Thị Vân A đối với anh Nguyễn Quang H. Cho chị Bùi Thị Vân A được ly hôn với anh Nguyễn Quang H.

2. Về con chung: Chị Bùi Thị Vân A và anh Nguyễn Quang H có 02 con chung. Giao con chung của anh chị là cháu Nguyễn Quang M, sinh ngày 30/4/20XX và cháu Nguyễn Bảo N, sinh ngày 25/11/20XX cho chị Bùi Thị Vân A trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng, Anh Nguyễn Quang H có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung đối với mỗi con chung là 1.500.000 (Một triệu năm trăm nghìn đồng)/tháng/1 con chung cho đến khi con chung đủ 18 tuổi hoặc có sự thay đổi khác.

Anh Nguyễn Quang H có quyền gặp gỡ, chăm sóc và giáo dục con chung mà không ai được ngăn cản.

3. Về tài sản chung, nợ chung: Chị Vân A và anh H xác định không có và không yêu cầu giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.

4. Về án phí: Chị Bùi Thị Vân A phải chịu 300.000 đồng án phí ly hôn sơ thẩm. Chị Vân A đã nộp 300.000 đồng tạm ứng án phí theo Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí tòa án số AA/2020/0043016 ngày 25/3/2022 của Chi cục thi hành án dân sự quận Bắc Từ Liêm, TP Hà Nội nay được chuyển thành án phí.

Án xử công khai, sơ thẩm. Nguyên đơn có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị đơn vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày được tống đạt hợp lệ bản án hoặc ngày bản án được niêm yết công khai./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

151
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp hôn nhân và gia đình số 253/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:253/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Ba Đình - Hà Nội
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 12/07/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về