Bản án về tranh chấp hôn nhân và gia đình số 23/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ VIỆT TRÌ, TỈNH PHÚ THỌ

BẢN ÁN 23/2022/HNGĐ-ST NGÀY 08/06/2022 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH

Ngày 08 tháng 6 năm 2022 tại trụ sở, Tòa án nhân dân thành phố Việt Trì, tỉnh Phú Thọ xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 494/2021/TLST-HNGĐ ngày 27 tháng 12 năm 2021 về việc “Tranh chấp hôn nhân và gia đình” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 22/2022/QĐXX-HNĐ ngày 26 tháng 4 năm 2022 và Thông báo hoãn phiên tòa số 21/2022/TB-TA ngày 09 tháng 5 năm 2022 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị O - Sinh năm 1960

Bị đơn: Ông Hà Lương Th - Sinh năm 1958 Đều ĐKHKTT tại: khu 12, xã Tr, thành phố V, tỉnh P (Bà O và ông Th có mặt)  

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện ngày 14 tháng 12 năm 2021, các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa hôm nay, bà Nguyễn Thị O là nguyên đơn trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Bà O và ông Th đăng ký kết hôn năm 1982 tại UBND xã Tr, thành phố V, tỉnh P. Giấy đăng ký kết hôn bản gốc bà O và ông Th đã làm thất lạc nên không cung cấp được cho Tòa án. Trước khi kết hôn được tự do tìm hiểu, lấy nhau hoàn toàn tự nguyện, không bị ai ép buộc. Sau khi kết hôn vợ chồng ở xa nhau vì lý do công việc, đến năm 1987 mới chung sống cùng với nhau thường xuyên. Trong quá trình chung sống từ năm 1987 đến năm 2017 vợ chồng phát sinh nhiều mâu thuẫn nguyên nhân do không cùng quan điểm sống. Ông bà sống ly thân với nhau từ năm 2017 vì ông Th chửi bà và không cho bà ngủ cùng, bà O cũng không rõ nguyên nhân tại sao ông Th lại như vậy. Trong thời gian sống ly thân, bà O và ông Th đã chấm dứt mọi quan hệ vợ chồng, ăn riêng, mỗi người ngủ một phòng, không ai quan tâm đến nhau nữa. Xét thấy tình cảm vợ chồng không còn, bà O đề nghị Tòa án giải quyết cho bà được ly hôn với ông Th.

Ông Hà Lương Th là bị đơn trình bày: Ông nhất trí với trình bày của bà O về quá trình kết hôn là đúng. Ông Th khẳng định ông và bà O có đăng ký kết hôn tại UBND xã Tr, thành phố V, tỉnh P. Giấy đăng ký kết hôn bản gốc bà O và ông Th đã làm thất lạc nên không cung cấp được cho Tòa án. Bà O và ông Th đã sống ly thân từ năm 2017 đến nay, nguyên nhân ông bà sống ly thân do bà O có quan hệ tình cảm với người dạy khiêu vũ nhưng ông không có tài liệu chứng cứ gì chứng minh việc ông trình bày. Ông nói với bà O nhiều lần về việc này nhưng bà O không thay đổi nên ông muốn ăn riêng ngủ riêng và không muốn liên quan đến nhau nữa. Ông Th còn tình cảm với bà O trước thời gian sống ly thân nhưng kể từ khi vợ chồng sống ly thân ông Th xác định tình cảm vợ chồng không còn. Trong thời gian sống ly thân, hai ông bà ăn riêng, ở riêng, không quan tâm gì đến nhau và chấm dứt mọi quan hệ vợ chồng. Nay bà O xin ly hôn với ông, ông không đồng ý ly hôn với bà O vì ông cho rằng vợ chồng không có mâu thuẫn và không muốn con cái bị mang tiếng bố mẹ ly hôn.

Về con chung: Bà Nguyễn Thị O và ông Hà Lương Th xác định vợ chồng có 02 con chung là cháu Hà Huy  sinh ngày 28/7/1984 và cháu Hà Thị Thu H sinh ngày 22/01/1988. Các cháu đã trưởng thành, lao động tự túc được và đã có gia đình riêng vì vậy không đề nghị Tòa án giải quyết.

Về tài sản chung, nợ chung: Bà Nguyễn Thị O và ông Hà Lương Th xác định vợ chồng có nhưng tự thỏa thuận nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về công sức đóng góp: Bà Nguyễn Thị O và ông Hà Lương Th xác định vợ chồng không có nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Ý kiến của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Việt Trì:

Căn cứ khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình; Khoản 1 Điều 28 và điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a Khoản 1 Điều 39 BLTTDS, khoản 1 Điều 147; Điều 273, Điều 280 BLTTDS; điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án và điểm 1.1 khoản 1 phần II mục A Danh mục án phí, lệ phí Tòa án ban hành kèm theo Nghị quyết. Xử:

- Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Thị O. Bà O được ly hôn với ông Th.

- Về con chung: Các con đều đã trưởng thành nên bà O và ông Th thống nhất không đề nghị giải quyết.

- Về tài sản chung, nợ chung: Hai bên xác nhận có nhưng tự thỏa thuận nên nhất trí không đề nghị Tòa án giải quyết.

- Về công sức đóng góp: Hai bên xác nhận không có nên nhất trí không đề nghị Tòa án giải quyết.

- Về án phí: Bà O thuộc trường hợp người cao tuổi, nên được miễn án phí dân sự sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1]. Về thủ tục tố tụng:

Về quan hệ pháp luật: Đây là vụ án “Tranh chấp Hôn nhân và gia đình” theo quy định tại khoản 1 Điều 28 Bộ Luật tố tụng dân sự.

Bị đơn có nơi cư trú tại khu 12, xã Tr, thành phố V, tỉnh P vì vậy tranh chấp thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố Việt Trì, tỉnh Phú Thọ theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ Luật tố tụng dân sự.

[2] Về quan hệ hôn nhân:

Bà Nguyễn Thị O và ông Hà Lương Th đều khẳng định ông bà có đăng ký kết hôn năm 1982 tại UBND xã Trưng Vương, thành phố Việt Trì, tỉnh Phú Thọ. Bà O và ông Th đã làm thất lạc giấy chứng nhận đăng ký kết hôn. Ủy ban nhân dân xã Trưng Vương, thành phố Việt Trì hiện tại không còn lưu sổ đăng ký kết hôn từ những năm 1982. Vì vậy không có căn cứ nào chứng minh việc bà O và ông Th thời điểm đó có đăng ký kết hôn hay không. Tuy nhiên, căn cứ Nghị quyết số 35/2000 ngày 09/6/2000 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về việc thi hành luật Hôn nhân và gia đình và Thông tư liên tịch số 01 ngày 03/01/2001 của Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ tư pháp hướng dẫn thi hành Nghị quyết số 35 như sau:

“1. Theo quy định tại điểm a khoản 3 Nghị quyết số 35 của Quốc hội, trong trường hợp quan hệ vợ chồng được xác lập trước ngày 03/01/1987 (ngày Luật hôn nhân và gia đình năm 1986 có hiệu lực) mà chưa đăng ký kết hôn, nếu một bên hoặc cả hai bên có yêu cầu ly hôn, thì Toà án thụ lý vụ án và áp dụng quy định về ly hôn của Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 để giải quyết vụ án ly hôn theo thủ tục chung. Cần chú ý là trong trường hợp sau khi quan hệ vợ chồng đã được xác lập họ mới thực hiện việc đăng ký kết hôn, thì quan hệ vợ chồng của họ vẫn được công nhận kể từ ngày xác lập (ngày họ bắt đầu chung sống với nhau như vợ chồng), chứ không phải là chỉ được công nhận kể từ ngày đăng ký kết hôn.” Như vậy tuy không có căn cứ nào chứng minh việc bà O và ông Th có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Trưng Vương, thành phố Việt Trì nhưng theo quy định tại điểm a khoản 3 Nghị quyết số 35, thì mặc dù không đăng ký kết hôn thì quan hệ của họ vẫn được công nhận là vợ chồng từ thời điểm họ chung sống với nhau là năm 1982. Ngoài ra bố đẻ của bà O là cụ Nguyễn Văn A cũng thừa nhận việc ông Th và bà O có đăng ký kết hôn tại UBND xã Trưng Vương vào năm 1982, đồng thời cụ có tổ chức lễ cưới cho ông Th và bà O dưới sự chứng kiến của nhà trai và nhà gái.

Xét yêu cầu xin ly hôn của bà Nguyễn Thị O: Theo bà O trong quá trình chung sống từ năm 1987 đến năm 2017, vợ chồng phát sinh nhiều mâu thuẫn nguyên nhân do không cùng quan điểm sống. Ông Th và bà O sống ly thân từ năm 2017 đến nay. Trong thời gian sống ly thân, bà O và ông Th đã chấm dứt mọi quan hệ vợ chồng, ăn riêng, ngủ riêng, không quan tâm đến nhau. Nay xét thấy tình cảm vợ chồng không còn, bà O đề nghị Tòa án giải quyết cho bà được ly hôn với ông Th. Ông Th cũng xác định ông bà đã sống ly thân từ năm 2017 đến nay và trong thời gian sống ly thân ông và bà O chấm dứt mọi quan hệ vợ chồng, không ai quan tâm đến ai. Ông Th cho rằng nguyên nhân ông bà sống ly thân do bà O có quan hệ tình cảm với người dạy khiêu vũ nhưng ông không có tài liệu chứng cứ gì chứng minh việc ông trình bày là có căn cứ. Nay bà O xin ly hôn, ông không đồng ý vì ông cho rằng vợ chồng không có mâu thuẫn và không muốn con cái bị mang tiếng bố mẹ ly hôn. Tại Biên bản xác minh tình trạng hôn nhân giữa bà O và ông Th tại nơi cư trú ngày 03 tháng 3 năm 2022, khu dân cư cung cấp trong quá trình chung sống ở khu dân cư bà O và ông Th có nhiều mâu thuẫn, khu dân cư đã vận đồng hòa giải nhiều lần nhưng không khắc phục được tình cảm vợ chồng. Xét thấy mục đích của hôn nhân giữa bà O và ông Th không đạt được, tình trạng hôn nhân trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài vì vậy bà O yêu cầu ly hôn với ông Th là có căn cứ cần chấp nhận theo quy định tại khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình.

[3]. Về con chung: Bà Nguyễn Thị O và ông Hà Lương Th thống nhất xác định vợ chồng có 02 con chung là cháu Hà Huy  sinh ngày 28/7/1984 và cháu Hà Thị Thu H sinh ngày 22/01/1988. Các con đã trưởng thành, lao động tự túc được và đã có gia đình riêng do đó ông bà không đề nghị Tòa án giải quyết vì vậy Tòa án không giải quyết trong vụ án này.

[4]. Về tài sản chung, nợ chung: Bà Nguyễn Thị O và ông Hà Lương Th thống nhất xác định có nhưng tự thỏa thuận nên không yêu cầu Tòa án giải quyết vì vậy chưa giải quyết trong vụ án này.

[5]. Về công sức đóng góp: Bà Nguyễn Thị O và ông Hà Lương Th thống nhất xác định không có nên không yêu cầu Tòa án giải quyết vì vậy không giải quyết trong vụ án này.

[6]. Về án phí: Bà Nguyễn Thị O là người cao tuổi nên được miễn tiền án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm theo điểm đ khoản 1 Điều 12 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Xét đề nghị nêu trên của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Việt Trì phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; khoản 4 Điều 147 của Bộ luật Tố tụng dân sự; điểm a Mục 3 Nghị quyết 35/2000/QH10 ngày 09 tháng 6 năm 2000 của Ủy Ban thường vụ Quốc hội; điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy Ban thường vụ Quốc hội;

Căn cứ vào khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình: Xử: Chấp nhận đơn khởi kiện của bà Nguyễn Thị O Về quan hệ hôn nhân: Xử cho bà Nguyễn Thị O được ly hôn với ông Hà Lương Th.

Về con chung: Không giải quyết trong vụ án này.

Tài sản chung, nợ chung: Chưa giải quyết trong vụ án này. Về công sức đóng góp: Không giải quyết trong vụ án này.

Về án phí: Bà Nguyễn Thị O là người cao tuổi nên được miễn tiền án phí Hôn nhân và gia đình sơ thẩm.

Nguyên đơn, bị đơn có mặt có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

148
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp hôn nhân và gia đình số 23/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:23/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Việt Trì - Phú Thọ
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 08/06/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về