Bản án về tranh chấp hôn nhân và gia đình số 21/2022/HNGĐ-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ THÁI BÌNH, TỈNH THÁI BÌNH

BẢN ÁN 21/2022/HNGĐ-ST NGÀY 09/05/2022 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH

Ngày 09 tháng 5 năm 2022 tại trụ sở Toà án nhân dân nhân dân thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 136/2021/TLST- HNGĐ ngày 29 tháng 11 năm 2021 về Tranh chấp Hôn nhân và gia đình theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 11/2022/QĐXXST- HNGĐ ngày 15 tháng 3 năm 2022 và Quyết định hoãn phiên tòa số 12/2022/QĐST- HNGĐ ngày 14 tháng 4 năm 2022 giữa:

- Nguyên đơn: Bà Lê Thị T, sinh năm 1960;

- Bị đơn: Ông Hoàng Văn Đ, sinh năm 1958;

Đều cư trú tại: Thôn P, xã V, thành phố T3, tỉnh T3.

(Tại phiên tòa vắng mặt bà Lê Thị T và ông Hoàng Văn Đ).

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Tại đơn khởi kiện xin ly hôn, lời khai trong quá trình giải quyết vụ án nguyên đơn bà Lê Thị T trình bày và có yêu cầu như sau:

- Về quan hệ hôn nhân: Bà Lê Thị T và ông Hoàng Văn Đ được tự nguyện tìm hiểu, đăng ký kết hôn vào năm 1979 tại UBND xã V. Khi bà T và ông Đ đến đăng ký kết hôn thì UBND xã V chỉ ghi vào sổ, không cấp giấy đăng ký kết hôn cho bà T và ông Đ. Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống tại Thôn P, xã V, thành phố T3. Vợ chồng chung sống không có hạnh phúc do tính tình không hợp nhau, ông Đ là người có tính tình nóng nảy, thường xuyên kiếm cớ đánh chửi bà T. Vì thương hai con bà T bỏ qua mọi chuyện để chung sống nuôi con. Mâu thuẫn căng thẳng nên bà T và ông Đ đã sống ly thân khoảng từ năm 2011 cho đến nay. Bà T và ông Đ không còn liên quan gì đến nhau. Nay xác định tình cảm vợ chồng không còn, bà T đề nghị Tòa án giải quyết cho bà T được ly hôn ông Đ.

- Về con chung: Bà T và ông Đ có hai con chung là Hoàng Văn Đ2, sinh ngày 25/9/1981 và con Hoàng Văn Đ3, sinh ngày 27/02/1987. Nay các con đã trưởng thành có gia đình riêng, tự lập được về kinh tế nên bà T không yêu cầu Tòa án giải quyết về con chung.

- Về chia tài sản: Bà T và ông Đ không có tài sản chung, không vay nợ chung tài sản của ai. Bà T không yêu cầu Tòa án giải quyết về tài sản chung của vợ chồng.

* Anh Hoàng Văn Đ3 là con ông Hoàng Văn Đ và bà Lê Thị T trình bày:

- Về quan hệ hôn nhân: Bà T và ông Đ kết hôn từ năm 1979 tại UBND xã V. Trong thời gian chung sống, bà T và ông Đ thường xuyên mâu thuẫn do tính tình không hợp nhau. Từ khi anh em anh Đ3 lớn lên, bà T và ông Đ đã sống ly thân, khoảng từ năm 2011 cho đến nay không ai quan tâm đến cuộc sống riêng của nhau nữa, mỗi người sống một nơi. Hiện tại, ông Đ đi chơi ở trong nhà con trai ở trong miền Nam. Ông Đ có biết việc bà T xin ly hôn, có điện thoại trao đổi với anh Đ3 là ông Đ đồng ý việc bà T xin ly hôn. Vì đang dịch bệnh lại ở xa nên ông Đ không thể về Thái Bình để giải quyết vụ án ly hôn giữa bà T và ông Đ. Ông Đ có ý kiến đề nghị Tòa án giải quyết vụ án vắng mặt ông Đ.

- Về con chung: Bà T và ông Đ có hai con chung là anh Hoàng Văn Đ2, sinh ngày 25/9/1981 và anh Hoàng Văn Đ3, sinh ngày 27/02/1987. Anh Đ2 và anh Đ3 đều đã trưởng thành và có gia đình riêng.

- Về chia tài sản: Bà T và ông Đ không có tài sản chung, không vay nợ chung tài sản của ai.

* Qua xác minh UBND xã V, thành phố T3 cung cấp:

Bà Lê Thị T và ông Hoàng Văn Đ đều có đăng ký hộ khẩu thường trú tại Thôn P, xã V, thành phố T3. Bà T trình bày: Bà T và ông Đ có đăng ký kết hôn tại UBND xã V vào năm 1979, khi đăng ký thì UBND xã có ghi vào sổ nhưng không cấp giấy đăng ký kết hôn. Hiện nay UBND V không còn lưu trữ sổ đăng ký kết hôn thời điểm năm 1979.

Ông Đ và bà T có hai con chung là Hoàng Văn Đ2, sinh năm 1981 và Hoàng Văn Đ3, sinh năm 1987, anh Đ2 và anh Đ3 đã trưởng thành và đều đã có gia đình riêng.

Bà T và ông Đ có tài sản chung hay không, có vay nợ chung hay không thì địa phương không biết.

Bà T xin ly hôn ông Đ địa phương đã biết, trên thực tế cuộc sống chung của bà T và ông Đ không có hạnh phúc, thường xuyên xảy ra mâu thuẫn. Ông Đ đã vào nhà con trai ở trong Miền Nam chơi khoảng vài tháng nay.

Việc Bà T xin ly hôn ông Đ, địa phương đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật.

* Tại phiên toà đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình phát biểu ý kiến:

1. Về tố tụng:

- Về việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán: Thẩm phán đã xác định đúng thẩm quyền và thụ lý vụ án; thực hiện đầy đủ các thủ tục cấp, tống đạt các văn bản tố tụng, quyết định đưa vụ án ra xét xử và thời hạn chuẩn bị xét xử được thực hiện đúng theo thủ tục tố tụng dân sự.

- Về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa: Về thành phần tham gia xét xử và việc tiến hành thủ tục tố tụng tại phiên tòa được thực hiện đúng và đầy đủ theo quy định của pháp luật.

- Về việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng: Từ khi thụ lý vụ án đến nay nguyên đơn đã chấp hành đúng các quy định về quyền và nghĩa vụ của mình, có bản tự khai, giao nộp các tài liệu, chứng cứ tham gia đầy đủ theo triệu tập của Tòa án phục vụ cho việc giải quyết vụ án. Bị đơn chưa chấp hành đúng các quy định về quyền và nghĩa vụ của mình.

2. Về nội dung: Căn cứ điểm a Điều 3 Nghị quyết 35/2000/NQ-QH10 ngày 09/6/2000 của Quốc Hội; khoản 1 Đ3 131 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014; Điều 187 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000.

- Về hôn nhân: Xử cho bà Lê Thị T được ly hôn ông Hoàng Văn Đ.

- Về nuôi con chung: Không phải giải quyết.

- Về chia tài sản: Không đặt ra giải quyết.

- Về án phí: Bà Lê Thị T là người cao tuổi, có đơn xin miễn nộp tiền án phí.

Bà T được miễn nộp án phí hôn sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà Hội đồng xét xử nhận định:

I. Về tố tụng: Bà Lê Thị T có đơn đề nghị xin được vắng mặt tại phiên tòa.

Ông Hoàng Văn Đ vắng mặt tại phiên tòa lần thứ hai. Hội đồng xét xử căn cứ điều 227 của Bộ luật Tố tụng dân sự tiến hành xét xử vụ án theo trình tự vắng mặt bà T và ông Đ.

II. Về nội dung:

[1] Về quan hệ hôn nhân:

Bà T trình bày: Ông Đ và bà T đã chung sống với nhau từ năm 1979 cho đến nay và sinh được hai người con chung. Ông Đ và bà T có đăng ký kết hôn tại UBND xã V nhưng không được cấp giấy đăng ký kết hôn.

Tòa án đã xác minh nhưng UBND xã V không còn lưu sổ đăng ký kết hôn thời điểm năm 1979.

Theo quy định tại điểm a, Điều 3 Nghị quyết 35/2000/NQ-QH10 ngày 09/6/2000 của Quốc Hội và khoản 1 Điều 131 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014. Tòa án áp dụng Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 để giải quyết vụ án.

Trong quá trình chung sống ông Đ và bà T chung sống không hạnh phúc, thường xuyên xảy ra mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn là do tính tình hai nguời không hợp nhau. Bà T và ông Đ đã sống ly thân từ năm 2011 cho đến nay. Xét thấy, trên thực tế cuộc sống chung giữa bà T và ông Đ đã không còn tồn tại, tình yêu thương của bà T đối với ông Đ không còn. Nay bà T có nguyện vọng xin ly hôn ông Đ, Tòa án xử cho bà T được ly hôn ông Đ.

[2] Về nuôi con chung: Ông Đ và bà T có hai con chung, hai con chung đều đã trưởng thành, không bị nhược điểm về thể chất và tâm thần, Tòa án không giải quyết về con chung.

[3] Về chia tài sản: Bà T trình bày, vợ chồng không có tài sản chung, không vay nợ chung. Tòa án chưa ghi được ý kiến của ông Đ về tài sản chung, vay nợ chung nên tách ra, không giải quyết về tài sản. Tòa án sẽ giải quyết bằng vụ án khác khi các đương sự có yêu cầu giải quyết về tài sản.

[4] Về án phí: Bà Lê Thị T là người cao tuổi, có đơn xin miễn nộp tiền án phí. Miễn án phí hôn sơ thẩm cho bà T.

[5] Về quyền kháng cáo: Các đương sự có quyền kháng cáo theo quy định.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ Điều 147, Điều 227 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; Căn cứ điểm a Điều 3 Nghị quyết 35/2000/NQ-QH10 ngày 09/6/2000 của Quốc Hội; khoản 1 Điều 131 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014; Điều 187 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000; điểm đ Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Quốc hội quy định về án phí và lệ phí Tòa án.

1. Về hôn nhân: Xử cho bà Lê Thị T được ly hôn ông Hoàng Văn Đ.

2. Về nuôi con chung: Không phải giải quyết.

3. Về chia tài sản: Tòa án sẽ giải quyết bằng vụ án khác, khi các đương sự có yêu cầu.

4. Về án phí: Bà Lê Thị T được miễn nộp án phí hôn sơ thẩm.

5. Về quyền kháng cáo: Bà Lê Thị T và ông Hoàng Văn Đ có quyền kháng cáo Bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được Bản án hợp lệ./

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

152
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp hôn nhân và gia đình số 21/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:21/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Thái Bình - Thái Bình
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 09/05/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về