Bản án về tranh chấp hôn nhân và gia đình số 21/2021/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN HƯNG HÀ, TỈNH THÁI BÌNH

BẢN ÁN 21/2021/HNGĐ-ST NGÀY 02/04/2021 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH 

Ngày 02 tháng 4 năm 2021, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 317/2020/TLST- HNGĐ, ngày 18 tháng 11 năm 2020 về việc: " Tranh chấp hôn nhân và gia đình” theo Q định đưa vụ án ra xét xử số 08/2021/QĐXX-ST ngày 03 tháng 3 năm 2021 và Q định hoãn phiên tòa số 06/2021/QĐST-HNGĐ, ngày 18-3- 2021 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Vũ Thị Thanh T, sinh năm 1991(có mặt)

Địa chỉ: Khu T, thị trấn H, huyện Hưng H, tỉnh Thái Bình

2. Bị đơn: Anh Hoàng Văn Q, sinh năm 1991(vắng mặt).

Địa chỉ: Thôn N, xã H, huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện, bản tự khai và tại phiên tòa, nguyên đơn chị Vũ Thị Thanh T trình bày:

Về hôn nhân: Chị và anh Hoàng Văn Q kết hôn cùng nhau do đôi bên tự nguyện tìm hiểu, có đăng ký kết hôn tại trụ sở Uỷ ban nhân dân (viết tắt UBND) xã H, huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình vào ngày 26-10-2012. Sau khi kết hôn, vợ chồng chung sống hòa thuận đến năm 2016 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn chủ yếu là do anh Q chơi bời cờ bạc, chị nhiều lần khuyên B nhưng anh Q không tu chí dẫn đến vợ chồng lạnh nhạt tình cảm. Đôi bên không khắc phục được nên vợ chồng sống ly thân từ đầu năm 2018 đến nay. Nay chị xác định tình cảm vợ chồng không còn, chị đề nghị Tòa án nhân dân (viết tắt là TAND) huyện Hưng Hà giải quyết cho chị được ly hôn anh Q.

Về nuôi con chung: Chị và anh Q có 01 con chung là Hoàng Gia B, sinh ngày 20-4-2013, hiện con chung do chị trực tiếp nuôi dưỡng. Nếu ly hôn chị xin được tiếp tục nuôi con, không yêu cầu anh Q góp cấp dưỡng nuôi con cùng chị.

Về chia tài sản chung: Không có nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Quá trình giải quyết vụ án anh Hoàng Văn Q vắng mặt nên không có ý kiến trình bầy.

Tại biên bản xác minh và biên bản ghi lời khai ngày 04-01- 2021 và ngày 25- 01-2021, bà Nguyễn Thị T, sinh năm 1959, địa chỉ: Thôn N, xã H, huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình (là mẹ đẻ anh Q) trình bày:

Hiện nay anh Hoàng Văn Q đang làm ăn ở miền Nam, gia đình bà không biết địa chỉ cụ thể của của anh Q ở đâu nên bà không cung cấp cho Tòa án được. Anh Q vẫn thường xuyên liên lạc về cho gia đình qua điện thoại. Bà đã nhận được Thông báo thụ lý vụ án, giấy triệu tập và thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận không khai chứng cứ và hòa giải của Tòa án nhân dân huyện Hưng Hà gửi cho anh Q, bà đã thông báo nội dung các văn bản trên cho anh Q, quan điểm của anh Q như sau: Anh và chị T kết hôn cùng nhau do đôi bên tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại trụ sở UBND xã H, huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình vào năm 2012. Sau khi kết hôn, vợ chồng chung sống hòa thuận đến năm 2016 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn chủ yếu là do vợ chồng tính tình không hợp nhau. Đôi bên không khắc phục được nên vợ chồng sống ly thân từ tháng 3 năm 2018 đến nay. Nay anh Q xác định tình cảm vợ chồng không còn, chị T có đơn xin ly hôn anh nhất trí ly hôn.

Về nuôi con chung: Anh và chị T có 01 con chung là Hoàng Gia B, sinh ngày 20-4-2013, hiện con chung do chị T trực tiếp nuôi dưỡng. Nếu ly hôn anh nhường chị T tiếp tục nuôi con.

Về tài sản chung: Không có nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Vì điều kiện công việc bận, không về Tòa án nhân dân huyện Hưng Hà để giải quyết vụ án ly hôn được, anh đề nghị Tòa án giải quyết vắng mặt anh.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình giám sát sự tuân theo pháp luật tại phiên tòa phát biểu ý kiến: Trong quá trình giải quyết vụ án, Thẩm phán, Hội đồng xét xử đã tiến hành thụ lý, thu thập chứng cứ và xét xử vụ án theo đúng thẩm quyền, đúng trình tự thủ tục tố tụng mà pháp luật quy định, chị T đã thực hiện quyền và nghĩa vụ đúng theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự, anh Q không thực hiện quyền và nghĩa vụ đúng theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự. Anh Q vắng mặt tại địa phương, Tòa án đã thực hiện đầy đủ việc tống đạt hợp lệ các văn bản của Tòa án đối với anh Q theo đúng quy định của pháp luật. Về việc giải quyết vụ án: Về hôn nhân, đề nghị Hội đồng xét xử xử cho chị Vũ Thị Thanh T được ly hôn anh Hoàng Văn Q; về nuôi con chung: Giao con chung là Hoàng Gia B, sinh ngày 20-4-2013 cho chị T tiếp tục nuôi dưỡng, chấp nhận sự tự nguyện của chị T không yêu cầu anh Q phải góp cấp dưỡng nuôi con cùng chị T; về chia tài sản chung: Chưa giải quyết; về án phí: Chị T phải chịu tiền án phí ly hôn sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, được xem xét tại phiên tòa và căn cứ kết quả tranh tụng. Tòa án nhân dân huyện Hưng Hà nhận định:

[1] Về tố tụng: Chị Vũ Thị Thanh T khởi kiện yêu cầu được ly hôn anh Hoàng Văn Q, căn cứ khoản 1 Điều 28, khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự thì vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của TAND huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình.

TAND huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình đã tống đạt hợp lệ các văn bản của Tòa án cho anh Q, anh Q biết việc TAND huyện Hưng Hà đang thụ lý và giải quyết vụ án ly hôn giữa chị T và anh Q nhưng do anh Q bận công việc, không cung cấp địa chỉ cụ thể cho Tòa án, không đến Tòa án để tham gia tố tụng. Chị T đề nghị Tòa án không hòa giải nên TAND huyện Hưng Hà tiến hành xét xử vắng mặt anh Q theo trường hợp bị đơn cố tình giấu địa chỉ theo quy tại điểm b khoản 2 Điều 227 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

[2] Về hôn nhân: Chị Vũ Thị Thanh T kết hôn với anh Hoàng Văn Q tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại UBND xã H, huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình vào ngày 26-10-2012, là hôn nhân hợp pháp. Sau thời gian chung sống hòa thuận, vợ chồng phát sinh mâu thuẫn do bất đồng quan điểm sống, chị T và anh Q không khắc phục được đã sống ly thân từ đầu năm 2018. Hội đồng xét xử thấy: Chị T và anh Q mâu thuẫn đã trầm trọng, cuộc sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được, chị T khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn anh Q, cần chấp nhận yêu cầu của chị T, xử cho chị T được ly hôn anh Q là có căn cứ và phù hợp với quy định tại khoản 1 Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình.

[3] Về nuôi con chung: Chị T và anh Q có 01 con chung là Hoàng Gia B, sinh ngày 20-4-2013. Xét thấy con chung còn nhỏ, cần có sự chăm sóc của mẹ, hơn nữa anh Q đang làm ăn xa nên cần giao con chung là Hoàng Gia B cho chị T tiếp tục nuôi dưỡng và chấp nhận sự tự nguyện của chị T không yêu cầu anh Q góp cấp dưỡng nuôi con chung cùng chị T là phù hợp với quy định tại Điều 81, Điều 82 Luật hôn nhân và gia đình.

[4] Về chia tài sản: Mặc dù chị T trình bầy chị và anh Q không có tài sản chung nên không yêu cầu Tòa án giải quyết; qua biên bản xác minh và biên bản ghi lời khai bà Tính cung cấp anh Q trình bầy không có tài sản chung nhưng do chưa có ý kiến trực tiếp của anh Q nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết về phần tài sản chung của chị T và anh Q tại phiên tòa hôm nay. Chị T và anh Q có quyền khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết chia tài sản (nếu có) bằng vụ kiện dân sự khác.

[5] Xét quan điểm của Viện kiểm sát nhân dân huyện Hưng Hà về hướng giải quyết vụ án phù hợp nhận định của Hội đồng xét xử nên chấp nhận.

[6] Về án phí: Chị T phải chịu tiền án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 28, khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39, Điều 147, điểm b khoản 2 Điều 227, Điều 271 và Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự; khoản 1 Điều 51, Điều 56, Điều 81, Điều 82 và Điều 83 Luật Hôn nhân và gia đình; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14, ngày 30-12-2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1.Về hôn nhân: Cho ly hôn giữa chị Vũ Thị Thanh T và anh Hoàng Văn Q.

2.Về nuôi con chung: Giao cho chị Vũ Thị Thanh T trực tiếp nuôi dưỡng con chung là Hoàng Gia B, sinh ngày 20-4-2013. Anh Q không phải thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung cùng chị T. Anh Q có quyền và nghĩa vụ thăm nom con chung mà không ai được cản trở.

3. Về chia tài sản: Chưa giải quyết.

4. Về án phí: Chị Vũ Thị Thanh T phải chịu 300.000 đồng tiền án phí ly hôn sơ thẩm, được trừ vào số tiền tạm ứng án phí 300.000 đồng chị T đã nộp theo biên lai thu tạm ứng án phí số 0006222 ngày 18-11-2020 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình (chị T đã nộp đủ tiền án phí).

5. Về quyền kháng cáo: Chị Vũ Thị Thanh T có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, anh Hoàng Văn Q có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận tống đạt hoặc niêm yết bản án hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

231
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp hôn nhân và gia đình số 21/2021/HNGĐ-ST

Số hiệu:21/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Hưng Hà - Thái Bình
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 02/04/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về