Bản án về tranh chấp hôn nhân và gia đình số 181/2023/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH NGHỆ AN

BẢN ÁN 181/2023/HNGĐ-ST NGÀY 24/07/2023 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH

Ngày 24 tháng 7 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Nghệ An xét xử sơ thẩm công khai vụ án Hôn nhân và Gia đình thụ lý số 154/2023/TLST-HNGĐ ngày 05 tháng 5 năm 2023 về việc “Tranh chấp hôn nhân và gia đình”; theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm số 162/2023/QĐXXST-HNGĐ ngày 16 tháng 6 năm 2023, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Hoàng Thị H, sinh năm 1990; địa chỉ cư trú trước khi xuất cảnh: Khối N, thị trấn N, huyện N, tỉnh Nghệ An; địa chỉ hiện nay: S - I, Mitsuke 1895, Vilagehouse Mitsuke 2-305, Nhật Bản; vắng mặt và có đơn đề nghị xét xử vắng mặt.

- Bị đơn: Anh Lang Văn D, sinh năm 1989; địa chỉ cư trú trước khi xuất cảnh: Bản M, xã C, huyện Q, tỉnh Nghệ An. Hiện đang ở Hàn Quốc; vắng mặt.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Bà Nguyễn Thị M, sinh năm 1967; địa chỉ: Khối M, thị trấn N, huyện N, tỉnh Nghệ An; vắng mặt và đề nghị xét xử vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện, bản tự khai, đơn xin xét xử vắng mặt, nguyên đơn chị Hoàng Thị H trình bày:

Chị H và anh Lang Văn D kết hôn với nhau trên tinh thần tự nguyện và có đăng ký kết hôn tại UBND xã C, huyện Q, tỉnh Nghệ An vào ngày 13/2/2012. Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống hạnh phúc với nhau tại nhà bố mẹ chị H tại khối N, thị trấn N, huyện N, tỉnh Nghệ An. Năm 2014 chị H đi xuất khẩu lao động tại Nhật Bản, từ khi sang Nhật Bản vợ chồng chúng vẫn thường xuyên liên lạc với nhau, đến năm 2016 thì anh D cũng đi xuất khẩu lao động tại Nhật Bản, từ khi anh D sang Nhật Bản thì vợ chồng đoàn tụ và sống hạnh phúc cùng nhau cho đến năm 2018 thì chồng anh D thay đổi tình cảm, có quan hệ tình cảm với người phụ nữ khác, là người phụ nữ chị H không thể chấp nhận được điều đó, kể từ đó vợ chồng sống ly thân với nhau, không còn quan tâm đến nhau. Năm 2020 anh D hết hạn lao động trở về Việt Nam.

Ngày 24/4/2023 chị H từ Nhật Bản trở về Việt Nam. Nay chị H thấy tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được nên đã làm đơn đề nghị Tòa án nhân dân tỉnh Nghệ An giải quyết cho chị được ly hôn với anh Lang Văn D.

Về con chung: Chị H và anh Lang Văn D có một con chung là cháu Lang Thị Ngân T, sinh ngày 24/6/2012 kể từ khi chị H đi lao động tại Nhật Bản thì cháu T ở cùng với bà ngoại là bà Nguyễn Thị M, sinh năm 1967, địa chỉ: khối M, thị trấn N, huyện N, tỉnh Nghệ An. Ly hôn chị H đề nghị Tòa án giao cháu T cho chị trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng và không đề nghị anh Lang Văn D cấp dưỡng nuôi con hàng tháng.

Trong trường hợp chị H phải quay lại Nhật Bản làm việc thì chị H nhờ bà Nguyễn Thị M chăm sóc nuôi dưỡng cháu T cho đến khi chị H trở về Việt Nam.

Về tài sản chung, nợ chung: Chị H không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Đối với bị đơn anh Lang Văn D, do vợ chồng không liên lạc gì với nhau nên chị Hoàng Thị H không cung cấp được địa chỉ cụ thể của anh D ở Hàn Quốc. Theo chị H trình bày anh D vẫn thường xuyên liên lạc về với bố mẹ đẻ là ông Lang Văn C và bà Lang Thi C1; địa chỉ cư trú: Bản M, xã C, huyện Q, tỉnh Nghệ An và ông C1, bà C1 biết địa chỉ cụ thể của anh D ở Hàn Quốc; đề nghị Tòa án tiến hành xác minh, thu thập chứng cứ đề làm căn cứ giải quyết vụ án theo quy định của pháp luật.

Sau khi thụ lý vụ án, Tòa án nhân dân tỉnh Nghệ An đã gửi văn bản cho ông Lang Văn C và bà Lang Thị C2 (là bố mẹ đẻ của anh Lang Văn D) thông báo về việc Tòa án đang thụ lý, giải quyết vụ án để ông C2, bà C2 thông báo cho anh D và đề nghị anh D nêu ý kiến về yêu cầu khởi kiện của chị H. Tòa án cũng đã niêm yết các văn bản tố tụng bao gồm Thông báo về việc thụ lý vụ án, Quyết định đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm, Quyết định hoãn phiên tòa tại nơi cư trú của anh D trước khi đi nước ngoài. Tuy nhiên, anh D không có ý kiến gì và vắng mặt trong suốt quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa sơ thẩm.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Nguyễn Thi M1 (mẹ đẻ của chị Hoàng Thi H1) trình bày:

Bà M1 là mẹ đẻ của chị Hoàng Thị H. Cháu Lang Thị Ngân T, sinh ngày 24/6/2012 là cháu ngoại của bà và cháu T sống với bà từ năm 2017 đến nay. Nếu chị H và anh D ly hôn thì bà không yêu cầu chị H và anh D trả tiền công chăm sóc nuôi dưỡng cháu T từ trước đến nay. Trong trường hợp Tòa án quyết định giao cháu T cho chị H nuôi dưỡng mà chị H phải quay trở lại Nhật Bản lao động thì bà đồng ý chăm sóc và nuôi dưỡng cháu T cho đến khi chị H về Việt Nam. Khi chị H về Việt Nam thì bà sẽ giao lại cháu T cho chị H chăm sóc nuôi dưỡng và xin được vắng mặt tại phiên tòa.

Đại diện Viện kiểm sát phát biểu ý kiến:

- Về tố tụng: Thẩm phán, Thư ký, Hội đồng xét xử đã thực hiện đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Nguyên đơn đã thực hiện đúng quyền, nghĩa vụ tố tụng theo quy định pháp luật, bị đơn không thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ tố tụng.

- Về quan điểm giải quyết vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình cho chị Hoàng Thị H và anh Lang Văn D được ly hôn. về con chung: Giao cháu Lang Thị Ngân T, sinh ngày 24/6/2012 cho chị H trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng; về cấp dưỡng nuôi con: Chị H không yêu cầu cấp dưỡng nên không xem xét. Đối với bà Nguyễn Thị M là người trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng con chung của chị H, anh D từ khi chị H, anh D đi nước ngoài, nhưng bà không yêu cầu nên miễn xét.

Về tài sản chung, nợ chung: Không xem xét do nguyên đơn không yêu cầu; về án phí: Chị H phải chịu án phí theo quy định của pháp luật; về quyền kháng cáo: Đương sự có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về thẩm quyền giải quyết vụ án: đây là vụ án Hôn nhân và Gia đình có đương sự hiện đang ở Hàn Quốc. Do đó, vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân tỉnh Nghệ An theo quy định tại khoản 3 Điều 35, điểm c khoản 1 Điều 37, Điều 40 và Điều 469 của Bộ luật Tố tụng dân sự; Điều 122, Điều 123 và Điều 127 của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014.

[2] Về thủ tục tố tụng: Anh Lang Văn D hiện đang ở Hàn Quốc, không có địa chỉ cụ thể. Ông Lang Văn C, bà Lang Thị C2 (là bố mẹ đẻ của anh D) đã thông báo cho con trai về việc thụ lý vụ án của Tòa án nhân dân tỉnh Nghệ An. Tòa án cũng đã niêm yết các văn bản tố tụng liên quan theo quy định pháp luật đồng thời yêu cầu ông C2, bà C2 cung cấp địa chỉ cụ thể của anh D ở Hàn Quốc nhưng ông C2, bà C2 không cung cấp được. Tính đến ngày mở phiên tòa xét xử lần thứ hai, Tòa án không nhận được bất cứ văn bản nào của anh D trình bày về yêu cầu khởi kiện ly hôn của chị H nên được coi như trường hợp bị đơn cố tình giấu địa chỉ, từ chối khai báo, từ chối cung cấp những tài liệu cần thiết và vụ án thuộc trường hợp không tiến hành hòa giải được theo quy định tại khoản 1 Điều 207 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

Nguyên đơn chị Hoàng Thị H vắng mặt và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Nguyễn Thị M vắng mặt và có đơn xin xử vắng mặt, bị đơn anh Lang Văn D vắng mặt. Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 1 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành phiên tòa vắng mặt các đương sự.

[3] Xét nội dung vụ án và các ý kiến, yêu cầu của đương sự:

[3.1] Về quan hệ hôn nhân: Chị Hoàng Thị H và anh Lang Văn D kết hôn với nhau trên cơ sở tự nguyện; có đăng ký kết hôn, là hôn nhân hợp pháp. Vợ chồng sống chung hạnh phúc một thời gian thì đã phát sinh mâu thuẫn, về nguyên nhân mâu thuẫn vợ chồng do tính tình không hợp, anh D đang sinh sống làm việc tại Hàn Quốc, chị H ở Nhật Bản, hai bên không còn liên lạc, quan tâm nhau, tình cảm vợ chồng phai nhạt dần. Chị H có nguyện vọng được ly hôn với anh D. Xét thấy, tình cảm vợ chồng giữa chị H và anh D không còn, hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng. Vì vậy, nếu kéo dài cuộc hôn nhân này thì mục đích hôn nhân không đạt được, cần chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, cho chị H được ly hôn với anh D là phù hợp Điều 56 của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014.

[3.2] Về con chung: Vợ chồng có 01 con chung là cháu Lang Thị Ngân T, sinh ngày 24/6/2012; hiện nay, cháu T đang ở với bà ngoại. Ly hôn chị H đề nghị Tòa án giao cháu T cho chị trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc sau ly hôn. Xét thấy, nguyện vọng của chị H là chính đáng, phù hợp với nguyện vọng của con chung và điều kiện thực tế vì hiện nay anh D đang ở Hàn Quốc và cố tình giấu địa chỉ. Về cấp dưỡng nuôi con, chị H chưa yêu cầu và anh D cũng chưa có ý kiến nên Hội đồng xét xử không xem xét.

Về công sức trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục cháu Lang Thị Ngân T: Bà Nguyễn Thị M không yêu cầu nên Tòa án không giải quyết.

[3.3] Về tài sản chung, nợ chung: Chị Hoàng Thị H không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không xem xét. Các bên có quyền khởi kiện đề nghị Tòa án giải quyết bằng một vụ án dân sự khác nếu có yêu cầu.

[4] Về án phí sơ thẩm: Nguyên đơn chị Hoàng Thị H phải chịu án phí Hôn nhân và Gia đình sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, khoản 3 Điều 35, điểm c khoản 1 Điều 37, Điều 40, khoản 1 Điều 207; điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 1 Điều 228, Điều 469 và Điều 479 của Bộ luật Tố tụng dân sự;

Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83, Điều 84, Điều 122, Điều 123 và Điều 127 của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014; xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn chị Hoàng Thị H.

- Về quan hệ hôn nhân: Chị Hoàng Thị H được ly hôn với anh Lang Văn D.

- Về con chung: Giao 01 con chung là cháu Lang Thị Ngân T, sinh ngày 24/6/2012 cho chị Hoàng Thị H trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục cho đến khi cháu Lang Thị Ngân T đủ 18 tuổi, trưởng thành. Về cấp dưỡng nuôi con, chị Hoàng Thị H chưa yêu cầu nên Hội đồng xét xử không xem xét.

Sau khi ly hôn, anh Lang Văn D có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung mà không ai được cản trở. Vì lợi ích mọi mặt của con, khi có lý do chính đáng hoặc có căn cứ theo quy định của pháp luật, theo yêu cầu của một hoặc các bên thì Tòa án có thể quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con và yêu cầu cấp dưỡng nuôi con.

- Về tài sản chung, nợ chung: Các bên có quyền khởi kiện đề nghị Tòa án giải quyết về tài sản chung và nợ chung bằng một vụ án dân sự khác nếu có yêu cầu.

2. Về án phí sơ thẩm: Căn cứ khoản 4 Điều 147 của Bộ luật Tố tụng dân sự; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án; buộc chị Hoàng Thị H phải chịu 300.000 (ba trăm nghìn) đồng án phí Hôn nhân và Gia đình sơ thẩm nhưng được khấu trừ 300.000 (ba trăm nghìn) đồng số tiền tạm ứng đã nộp tại Cục Thi hành án Dân sự tỉnh Nghệ An theo Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số: 0012841 ngày 27 tháng 4 năm 2023.

3. Chị Hoàng Thị H, anh Lang Văn D có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 01 tháng, kể từ ngày bản án được tống đạt hoặc niêm yết hợp lệ theo quy định của pháp luật; bà Nguyễn Thị M có quyền kháng cáo bản án lên Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 của Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 của Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 của Luật Thi hành án dân sự./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

10
  • Tên bản án:
    Bản án về tranh chấp hôn nhân và gia đình số 181/2023/HNGĐ-ST
  • Cơ quan ban hành:
  • Số hiệu:
    181/2023/HNGĐ-ST
  • Cấp xét xử:
    Sơ thẩm
  • Lĩnh vực:
    Hôn Nhân Gia Đình
  • Ngày ban hành:
    24/07/2023
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp hôn nhân và gia đình số 181/2023/HNGĐ-ST

Số hiệu:181/2023/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Nghệ An
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 24/07/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về