Bản án về tranh chấp hôn nhân và gia đình số 145/2021/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH NGHỆ AN

BẢN ÁN 145/2021/HNGĐ-ST NGÀY 29/09/2021 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH

Ngày 29/9/2021, tại Trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Nghệ An xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 47/2021/TLST-HNGĐ ngày 25/3/2021 về việc “Tranh chấp Hôn nhân và Gia đình” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 117/2021/QĐXXST-HNGĐ ngày 06/9/2021, giữa:

- Nguyên đơn: Chị Hoàng Thị H, sinh năm 1991; Địa chỉ cư trú: Xóm Thanh Đầm, xã Hùng Tiến, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An; vắng mặt.

- Bị đơn: Anh Lê Bá T, sinh năm 1991; Địa chỉ trước khi xuất cảnh: Xóm 10, xã Nam Lộc, (nay là xóm Hồng Sơn, xã Thượng Tân Lộc), huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An. Hiện đang ở Đài Loan; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện đề ngày 15/11/2020 và lời khai trong quá trình giải quyết vụ án nguyên đơn chị Hoàng Thị H trình bày: Chị và anh Lê Bá T tự nguyện kết hôn với nhau, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Nam Lộc, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An vào ngày 09/6/2014. Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống hạnh phúc với nhau tại nhà bố mẹ anh T ở xóm 10, xã Nam Lộc, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An cho đến năm 2020 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân là do anh T rượu chè, bài bạc, lô đề dẫn đến nợ nần, chị T và gia đình đã vay mượn trả nợ cho anh T để anh T thay đổi tính nết nhưng không có kết quả. Đến tháng 6/2020, anh Lê Bá T đi xuất khẩu lao động ở Đài Loan, vợ chồng không liên lạc, quan T đến nhau nữa. Nay xét thấy tình cảm vợ chồng không còn nên chị H làm đơn yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh Lê Bá T.

Về con chung: Vợ chồng có 01 con chung là cháu Lê Thị Thu C, sinh ngày 22/11/2014, hiện đang do chị H trực tiếp nuôi dưỡng. Ly hôn, chị H có nguyện vọng được trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung, không yêu cầu anh T cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung và nợ chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Vê phia anh Lê Bá T: Sau khi thu ly vu an , Tòa án đã gửi các văn bản tố tụng: Thông bao thu ly vu an kèm theo đơn khởi kiện của chị Hoàng Thị H; yêu câu anh T có quan điểm của mình về việc giải quyết vụ án ; Quyêt đinh đưa vu a n ra xet xư ; … cho anh Lê Bá T thông qua bà Lê Thị Bình là mẹ đẻ của anh Lê Bá T; đông thơi tiên hanh niêm yêt cac văn ban tô tung nêu trên tai tru sơ UBND xã Thượng Tân Lộc và nơi cư trú cuối cùng tại Việt Nam của anh T, nhưng hiện tại anh T vắng mặt không có lý do và cũng không có văn bản trình bày y kiên gửi cho Tòa án.

Quá trình xác minh được bà Lê Thị Bình cung cấp: Bà là mẹ đẻ của anh Lê Bá T. Năm 2020, anh T đi xuất khẩu lao động tại Đài Loan cho đến nay và vẫn liên lạc về với bà Bình. Bà đã nhận được Thông báo thụ lý vụ án và Công văn của Tòa án yêu cầu cung cấp địa chỉ của anh T ở nước ngoài. Bà đã thông báo cho anh T biết việc chị Hoàng Thị H làm đơn xin ly hôn với anh T nhưng anh T không quan T, anh T không cung cấp địa chỉ cho bà nên bà không có địa chỉ của anh T để cung cấp cho Tòa án.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Nghệ An phát biểu ý kiến:

Về tố tụng: Trong qua trinh giai quyêt vu an Thâm phan , Thư ký, Hôi đông xét xử tu ân thu đung quy đinh cua phap luât . Viêc thu thâp chưng cư thưc hiên đung quy đinh . Nguyên đơn đã thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ tố tụng theo quy định của pháp luật. Quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn chị Hoàng Thị H chỉ cung cấp được địa chỉ nơi cư trú cuối cùng ở Việt Nam của bị đơn anh Lê Bá T mà không cung cấp được địa chỉ của anh T ở nước ngoài. Căn cứ vào tài liệu do Cục xuất nhập cảnh cung cấp và thông qua lời khai của bà Lê Thị Bình có cơ sở xác định anh T đang cư trú ở nước ngoài và vẫn liên hệ với gia đình bà Bình. Tòa án đã hai lần yêu cầu bà Bình cung cấp địa chỉ của anh T ở nước ngoài và thông báo cho anh T để anh T gửi ý kiến về, nhưng anh T không cung cấp địa chỉ, cũng như không gửi ý kiến về nên bà Bình không cung cấp được địa chỉ anh T cho Tòa án, nên xác định đây là trường hợp bị đơn cố tình giấu địa chỉ, từ chối khai báo, từ chối cung cấp những tài liệu cần thiết nên Tòa án đưa vụ án ra xét xử là đúng quy định của pháp luật.

Về nội dung: Đề nghị Hôi đông xet xư áp dụng Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình cho chi Hoàng Thị H đươc ly hôn anh Lê Bá T, giao con chung cho chi H chăm soc , nuôi dương; chị H không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con nên không giải quyết; về tai san chung, nợ chung: Chị H không yêu cầu nên miễn xét, dành quyền khởi kiện cho các đương sự khi có yêu cầu. Buộc chị H phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có tại hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa, ý kiến của đại diện Viện kiểm sát, các quy định của pháp luật, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng: Căn cứ vào Công văn số 5686/QLXNC-P5 ngày 15/3/2021 của Cục quản lý xuất nhập cảnh Bộ Công an và lời khai của bà Lê Thị Bình là mẹ đẻ của anh Lê Bá T thì có căn cứ xác định hiện nay anh Lê Bá T đang cư trú tại nước ngoài và vẫn liên lạc về với gia đình. Anh T đã biết được việc chị H làm đơn xin ly hôn đối với anh T tại Tòa án nhân dân tỉnh Nghệ An nhưng anh T không cung cấp địa chỉ và gửi văn bản trình bày ý kiến về cho Tòa án. Tòa án đã yêu cầu đến lần thứ hai mà thân nhân của anh T cũng không cung cấp địa chỉ, tin tức của anh T cho Tòa án. Do đó, việc anh Lê Bá T vắng mặt thuộc trường hợp cố tình giấu địa chỉ, từ chối khai báo theo hướng dẫn tại Công văn số 253/TATC- PC ngày 26/11/2018 của Tòa án nhân dân tối cao về việc giải quyết vụ án ly hôn có bị đơn là người Việt Nam ở nước ngoài không rõ địa chỉ. Vụ án thuộc trường hợp không tiến hành hòa giải được theo quy định tại khoản 2 Điều 207 Bộ luật tố tụng dân sự. Anh T đã được triệu tập hợp lệ vắng mặt tại phiên tòa lần thứ hai; chị H có ý kiến đề nghị xét xử vắng mặt. Căn cứ vào khoản 3 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự, Tòa án tiến hành xét xử vụ án theo thủ tục chung để đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự.

[2] Về tình cảm: Chị Hoàng Thị H và anh Lê Bá T kết hôn với nhau trên cơ sở tự nguyện có đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật là hôn nhân hợp pháp. Sau khi kết hôn vợ chồng sống chung hạnh phúc. Đến năm 2020, vợ chồng phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn là do vợ chồng không tin tưởng nhau. Tháng 6/2020, anh T đi xuất khẩu lao động tại Đài Loan cho đến nay, vợ chồng không liên lạc với nhau, không quan T, chăm sóc nhau. Quá trình Tòa án thụ lý, giải quyết vụ án anh T đã biết được việc chị H yêu cầu ly hôn nhưng anh T cũng không có ý kiến thể hiện mong muốn được Tòa án hòa giải cho vợ chồng đoàn tụ. Chị H đề nghị được ly hôn, tại phiên tòa anh T vắng mặt. Xét thấy, hôn nhân giưa chị H và anh T đa lâm vao tinh trang trâm trong , đơi sông chung không thê keo dai, mục đích hôn nhân không đạt đươc nên căn cư vao Điêu 56 Luât Hôn nhân va gia đinh giai quyêt cho chi Hoàng Thị H đươc ly hôn với anh Lê Bá T.

[3] Về con chung: Chị Hoàng Thị H và anh Lê Bá T có 01 con chung là cháu Lê Thị Thu C, sinh ngày 22/11/2014, hiện cháu đang ở với chị H, do chị H trực tiếp nuôi dưỡng. Anh T đang ở nước ngoài, không có điều kiện để trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng con chung. Để đảm bảo quyền lợi mọi mặt cho con chung chưa thành niên nên cần giao cho chị H tiếp tục trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục cháu C là phù hợp với quy định của pháp luật.

Về cấp dưỡng nuôi con: Chị H không yêu câu nên Tòa án chưa xem xét . Anh T có quyền và nghĩa vụ thăm nom con chung không ai được cản trở.

[4] Về tài sản chung và nợ chung: Chị Hoàng Thị H không yêu câu Toa an giải quyết. Tuy nhiên, hiện nay anh T chưa co y kiên nên Toa an chưa co cơ sơ đê xem xet. Dành quyền khởi kiện cho các đương sự khi có yêu cầu.

[5] Về án phí: Chị Hoàng Thị H phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng: Điều 51, 56, 81, 82, 83 Luật Hôn nhân gia đình; Điều 147; khoản 2 Điêu 207; khoản 3 Điêu 228; khoản 1, 2 Điêu 479 Bô luât Tô tung Dân sư; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội vê an phi, lê phí Tòa án. Xử:

- Về tình cảm: Cho Hoàng Thị H và anh Lê Bá T được ly hôn.

- Về con chung: Giao cháu Lê Thị Thu C, sinh ngày 22/11/2014 cho chị Hoàng Thị H trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục cho đến khi cháu C đủ 18 tuổi, trưởng thành. Về cấp dưỡng nuôi con: Chị Hoàng Thị H không yêu cầu nên Tòa án chưa xem xét. Anh Lê Bá T có quyền và nghĩa vụ thăm nom con chung không ai được cản trở.

- Về tài sản chung và nợ chung : Dành quyền khởi kiện cho các đương sự khi co yêu câu.

- Về án phí: Chị Hoàng Thị H phải chịu 300.000 đồng tiền án phí ly hôn sơ thẩm, nhưng được khấu trừ 300.000 đồng tiền tạm ứng án phí đã nộp tại Cục thi hành án dân sự tỉnh Nghệ An theo biên lai số 0003967 ngày 24/3/2021.

Chị Hoàng Thị H có quyền kháng cáo bản án lên Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết hợp lệ. Anh Lê Bá T đang cư trú ở nước ngoài vắng mặt có quyền kháng cáo lên Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội trong thời hạn 01 tháng kể từ ngày bản án được tống đạt hợp lệ hoặc niêm yết hợp lệ theo quy định của pháp luật./

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

167
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp hôn nhân và gia đình số 145/2021/HNGĐ-ST

Số hiệu:145/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Nghệ An
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành:29/09/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về