Bản án về tranh chấp hôn nhân và gia đình số 14/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ SƠN TÂY, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 14/2022/HNGĐ-ST NGÀY 15/06/2022 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH

Ngày 15 tháng 6 năm 2022, tại Trụ sở Tòa án nhân dân thị xã Sơn Tây xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 43/2022/TLST-HNGĐ ngày 17 tháng 3 năm 2022 về tranh chấp Ly hôn, người trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 08/2022QĐXX-ST ngày 27 tháng 5 năm 2022 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Chị Trần Thị Minh Th, sinh năm 1987 “có mặt”

Bị đơn: Anh Nguyễn Thế N, sinh năm 1979 “có mặt”

Đều ĐKHKTT: Số nhà 18, tổ dân phố Z175, xã X, thị xã Sơn Tây, Thành phố Hà Nội.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện đề ngày 17/3/2022 và các lời khai tiếp theo tại Tòa án, nguyên đơn là chị Trần Thị Minh Th trình bày: Chị và anh Nguyễn Thế N kết hôn ngày 18/11/2008 tại UBND xã Ng, huyện Văn Chấn, tỉnh Yên Bái. Sau khi kết hôn vợ chồng chị sống hạnh phúc đến năm 2017 thì thường xuyên xảy mâu thuẫn. Nguyên nhân là do vợ chồng chị bất đồng quan điểm sống và không tìm được tiếng nói chung. Tình cảm đã rạn nứt từ lâu, hiện nay hai vợ chồng đã ly thân nhau. Nay chị Th xác định tình cảm giữa chị và anh N không thể hàn gắn được. Đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn anh Nam.

Về con chung: có 02 con chung là Nguyễn Trần Trà M, sinh ngày 08/12/2009 và Nguyễn Trần Gia B, sinh ngày 28/3/2017. Sau khi ly hôn chị Th có nguyện vọng nuôi cả 02 con chung. Chị Th không đề nghị anh N cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung: Không đề nghị Tòa án giải quyết;

Về nợ chung, công sức đóng góp đối với gia đình: Không có.

Tại bản tự khai ngày 17/3/2022 và các lời khai tiếp theo tại Tòa án, bị đơn anh Nguyễn Thế N trình bày:

Anh và chị Trần Thị Minh Th có đăng ký kết hôn ngày 18/11/2008 tại UBND xã Ng, huyện Văn Chấn, tỉnh Yên Bái. Quá trình chung sống vợ chồng anh vẫn quan tâm, yêu thương nhau. Bản thân anh vẫn rất yêu thương vợ con và chăm sóc gia đình. Hiện nay, anh xác định tình cảm vợ chồng vẫn còn, vẫn cần gia đình cho các con. Chị Th đề nghị Tòa án giải quyết ly hôn đối với anh, anh không đồng ý và mong muốn được đoàn tụ.

Về con chung: có 02 con chung là Nguyễn Trần Trà M, sinh ngày 08/12/2009 và Nguyễn Trần Gia B, sinh ngày 28/3/2017. Nếu trường hợp chị Th vẫn kiên quyết đề nghị Tòa án giải quyết ly hôn thì anh có nguyện vọng nuôi con Nguyễn Trần Gia B, chị Th nuôi con Nguyễn Trần Trà M.

Về tài sản chung: Không đề nghị Tòa án giải quyết;

Về nợ chung, công sức đóng góp đối với gia đình: Không có.

Tại phiên tòa, các bên đương sự giữ nguyên các ý kiến, yêu cầu như trong quá trình Tòa án giải quyết vụ án. Chị Trần Thị Minh Th có trình bày chị đang làm kế toán trưởng tại công ty Cổ Cổ phần đầu tư phát triển rau sạch S, huyện Ba Vì, thành phố Hà Nội. Anh N là Công an đang công tác tại đội Xây dựng phòng trào - Công an huyện Ba Vì, thành phố Hà Nội.

Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát phát biểu quan điểm: Tòa án nhân dân thị xã Sơn Tây thụ lý vụ án đúng quy định của pháp luật. Thẩm phán đã tuân thủ đúng quy trình tố tụng dân sự: Giao thông báo thụ lý vụ án, lấy lời khai của đương sự, hòa giải, xác minh các văn bản tố tụng đúng quy định của pháp luật. Đương sự thực hiện đúng quyền hạn của mình theo quy định của pháp luật. Áp dụng Điều 56, 58, 81, 82, 83 Luật hôn nhân và gia đình. Xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Trần Thị Minh Th xin ly hôn anh Nguyễn Thế N. Chị Trần Thị Minh Th được ly hôn anh Nguyễn Thế N . Về con chung: có 02 con chung là Nguyễn Trần Trà M, sinh ngày 08/12/2009 và Nguyễn Trần Gia B, sinh ngày 28/3/2017. Giao cháu Nguyễn Trần Gia B cho chị Trần Thị Minh Th trực tiếp nuôi dưỡng, giao anh Nguyễn Thế N trực tiếp nuôi con Nguyễn Trần Trà M trực tiếp nuôi dưỡng. Hai bên không phải cấp dưỡng nuôi con chung. Về tài sản chung: Anh chị không yêu cầu nên Tòa án không giải quyết. Về nợ chung: Cả hai anh chị đều khai là không có. Về án phí: Chị Trần Thị Minh Th phải chịu án phí không giá ngạch đối với yêu cầu ly hôn .

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về pháp luật tố tụng: Tranh chấp trong vụ án là tranh chấp Hôn nhân và gia đình theo quy định tại khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015. Tòa án nhân dân thị xã Sơn Tây, thành phố Hà Nội thụ lý và giải quyết vụ án là đúng thẩm quyền. Trong quá trình giải quyết vụ án Tòa án đã thực hiện đúng việc giao các văn bản tố tụng với đương sự. Thực hiện việc thông báo phiên họp tiếp cận, kiểm tra, công khai chứng cứ và hòa giải, tống đạt Quyết định đưa vụ án ra xét xử cho đương sự. Tòa án đã tiến hành mở phiên tòa ngày 15/6/2022, tuy nhiên anh N đề nghị Tòa án đưa cháu Nguyễn Trần Trà M đến trụ sở Tòa án để xem xét nguyện vọng của cháu. Hội đồng xét xử nhận thấy đây là yêu cầu có cơ sở được chấp nhận nên đã quyết định tạm dừng phiên tòa. Tòa án ấn định ấn định ngày xét xử là ngày 28/6/2022 và thực hiện thông báo, tống đạt thông báo mở lại phiên tòa cho anh Nam, chị Th. Tại phiên tòa hôm nay, chị Th, anh N có mặt tại phiên tòa để tham gia tố tụng xét xử vụ án theo quy định của pháp luật.

[2] Về quan hệ hôn nhân: Chị Trần Thị Minh Th và anh Nguyễn Thế N kết hôn tuân thủ đầy đủ các điều kiện kết hôn và thủ tục về kết hôn theo quy định của Luật Hôn nhân và gia đình, do đó quan hệ hôn nhân giữa chị Th và anh N là hợp pháp. Qua xác minh cho thấy: Chị Th là người chịu khó làm ăn, không có dư luận xấu gì. Anh chị là người kín kẽ nên mâu thuẫn của anh chị thì bố đẻ của chị Th sống cùng là nắm rõ nhất. Một người phụ nữ phải xin ly hôn là khi họ đã quá bế tắc với cuộc sống hiện tại. Ông Trần Văn M (bố đẻ chị Th) cho biết: Anh, chị chung sống hạnh phúc có phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn do kinh tế trong gia đình dẫn đến chồng thường xuyên cãi nhau. Bố đẻ anh N là ông Nguyễn Xuân Th cho biết: Quá trình chung sống chị Th và anh N có phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn như thế nào thì gia đình ông không nắm được. Hai vợ chồng chị Th mặc dù sống cùng nhà nhưng không quan tâm đến nhau từ tháng 11/2021 đến nay. Chị Th đã từng cho anh N cơ hội để thay đổi khi rút đơn ly hôn tại Tòa án nhân dân thị xã Sơn Tây, TP. Hà Nội. Tòa án đã ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án số 17/2021/QĐST-HNGĐ ngày 08/4/2021. Như vậy, mục đích hôn nhân không đạt được, đời sống chung không thể kéo dài. Nên chấp nhận cho chị Trần Thị Minh Th được ly hôn với anh Nguyễn Thế N là phù hợp với quy định tại Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình.

[3] Về con chung: Anh chị thống nhất xác định có 02 con chung là Nguyễn Trần Trà M, sinh ngày 08/12/2009 và Nguyễn Trần Gia B, sinh ngày 28/3/2017. Hai hoàn toàn khỏe mạnh, bình thường và hiện nay đang ở với chị Th. Chị Th có nguyện vọng nuôi cả 02 con chung và không đề nghị Tòa án cấp dưỡng nuôi con. Anh N có nguyện vọng nuôi con Nguyễn Trần Gia B.

Hội đồng xét xử nhận thấy rằng, về mặt thu nhập chị Th là kế toán trưởng của công ty Cổ phần đầu tư phát triển rau sạch S, huyện Ba Vì, thành phố Hà Nội. Anh N là Công an đang công tác tại đội Xây dựng phòng trào- Công an huyện Ba Vì, thành phố Hà Nội. Như vậy, hai bên đều có mức thu nhập và đều có khả năng nuôi con. Tuy nhiên, cháu Nguyễn Trần Gia B hiện nay còn nhỏ, vẫn cần sự chăm sóc của người mẹ. Cháu Nguyễn Trần Trà M hiện nay đã được 13 tuổi. Tòa án tiến hành lấy ý kiến của cháu. Nguyện vọng của cháu là muốn được ở với mẹ. Đây là nguyện vọng chính đáng và hoàn toàn tự nguyện của cháu. Do vậy, để đảm bảo sự phát triển bình thường và phát triển ổn định cho con chung, cần giao cả 02 con chung cho chị Th trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục là phù hợp. Anh N có quyền đi lại thăm nom con chung, không ai được cản trở. Về cấp dưỡng, chị Th không đề nghị cấp dưỡng nuôi con nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[4] Về tài sản chung, nợ chung: Chị Th và anh N đều không đề nghị Tòa án giải quyết. Vì vậy, Hội đồng xét xử không xem xét.

[5] Về công sức đóng góp, nợ chung: Hai bên đều thống nhất là không có.

[6] Về án phí: Chị Trần Thị Minh Th phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên 

QUYẾT ĐỊNH

- Áp dụng khoản 1 Điều 28; điểm a, khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, Điều 147, điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228, Điều 238, Điều 271, Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.

- Áp dụng khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 55, Điều 81, 82, 83 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014.

- Áp dụng khoản 1 Điều 6, điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án và Danh mục án phí, lệ phí Tòa án ban hành theo Nghị quyết Xử:

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Trần Thị Minh Th. Chị Trần Thị Minh Th được ly hôn anh Nguyễn Thế N.

2. Về con chung: Anh chị có 02 con chung là có 02 con chung là Nguyễn Trần Trà M, sinh ngày 08/12/2009 và Nguyễn Trần Gia B, sinh ngày 28/3/2017. Giao chị Th trực tiếp nuôi cả 02 con chung. Tạm hoãn nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con đối với anh N cho đến khi các bên có yêu cầu mới.

Anh N có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

Cha, mẹ trực tiếp nuôi con cùng các thành viên trong gia đình không được cản trở người không trực tiếp nuôi con trong việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con. Cha, mẹ không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người đó. Vì lợi ích mọi mặt của con chưa thành niên, khi người trực tiếp nuôi con không còn đủ điều kiện trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì có thể thay đổi người trực tiếp nuôi con.

3. Về tài sản chung: Hội đồng xét xử không xem xét.

4. Về công sức, nợ chung: Không có.

5. Về án phí: Chị Trần Thị Minh Th phải chịu 300.000đ (ba trăm ngàn đồng) án phí ly hôn sơ thẩm, được trừ vào số tiền tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm chị Th đã nộp là 300.000đ (ba trăm ngàn đồng) theo biên lai số 0056291 ngày 17/3/2022 của Chi cục Thi hành án dân sự thị xã Sơn Tây, thành phố Hà Nội.

6. Về quyền kháng cáo: Chị Trần Thị Minh Th và anh Nguyễn Thế N có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

140
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp hôn nhân và gia đình số 14/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:14/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Sơn Tây - Hà Nội
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 15/06/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về