TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH NGHỆ AN
BẢN ÁN 140/2021/HNGĐ-ST NGÀY 27/09/2021 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH
Ngày 27 tháng 9 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Nghệ An xét xử công khai vụ án thụ lý số 117/2021/TLST-HNGĐ ngày 05 tháng 7 năm 2021 về việc “Tranh chấp hôn nhân và gia đình”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm số: 128/2021/QĐXXST-HNGĐ ngày 29 tháng 7 năm 2021, giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Chị Lê Thị Hồng V, sinh năm 1976; Địa chỉ: Số 18A, đường H, khối 13, phường B, thành phố V, tỉnh Nghệ An. Đề nghị vắng mặt.
- Bị đơn: Anh Phạm Xuân Q, sinh năm 1967; Nơi ĐKHKTT trước khi xuất cảnh: Khối 13, phường B, thành phố V, tỉnh Nghệ An. Hiện đang cư trú tại: Vương quốc Bỉ. Vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Trong đơn xin ly hôn đề ngày 27/4/2021, lời khai trong quá trình giải quyết vụ án chị Lê Thị Hồng V trình bày: Chị V và anh Phạm Xuân Q kết hôn với nhau trên cơ sở tự nguyện, đăng ký ngày 16/8/2007 tại Đại sứ quán Việt Nam tại Hungary. Sau khi kết hôn, hai người chung sống hạnh phúc với nhau đến năm 2012, chị V về nước, anh Q vẫn ở nước ngoài nhưng thường xuyên về thăm vợ con. Quá trình chung sống, vợ chồng phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân mâu thuẫn là do quan điểm sống hai người không phù hợp nhau. Đến tháng 10/2020 anh Q tiếp tục xuất cảnh và hai người cắt đứt mọi liên lạc, không quan tâm gì đến nhau kể cả vật chất lẫn tinh thần. Nay xác định, tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được, nên chị V yêu cầu Toà án giải quyết cho ly hôn anh Phạm Xuân Q để giải phóng cho chị.
- Về con chung: Chị V và anh Phạm Xuân Q có ba con chung; cháu Phạm Quyết Th sinh ngày 05/02/2004, cháu Phạm Thị Hoàng Lsinh ngày 18/3/2008 và cháu Phạm Hoàng Asinh ngày 06/9/2010, hiện các cháu đang do chị V nuôi dưỡng, chăm sóc. Nếu ly hôn chị V có nguyện vọng xin được nuôi cả ba con chung, không yêu cầu anh Q cấp dưỡng.
- Về tài sản chung; nợ chung: Chưa yêu cầu Toà án giải quyết.
Về phía anh Phạm Xuân Q: Sau khi thụ lý vụ án Toà án đã gửi các văn bản tố tụng cho anh Phạm Xuân Q thông qua bà Nguyễn Thị Th1 là mẹ của anh Q. Bà Th1 đã thông báo cho anh Q biết việc chị V yêu cầu ly hôn, nuôi con chung, nhưng hiện anh Phạm Xuân Q vắng mặt và cũng không có ý kiến gì.
Các cháu Phạm Quyết Th, Phạm Thị Hoàng L và cháu Phạm Hoàng A trình bày: Các cháu là con của ông Quyết, bà Vân, từ khi bố đi nước ngoài, các cháu ở cùng mẹ. Nay, nếu bố mẹ ly hôn nhau, nguyện vọng của các cháu tiếp tục được ở với mẹ để ổn định học tập.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Nghệ An phát biểu ý kiến: Trong quá trình giải quyết vụ án, Thẩm phán, Hội đồng xét xử tuân thủ đúng các quy định của pháp luật. Việc thu thập chứng cứ và đương sự tham gia tố tụng thực hiện đúng quy định, đảm bảo quyền, nghĩa vụ của họ. Trong quá trình Tòa án thụ lý giải quyết vụ án, theo bà Nguyễn Thị Th1, (mẹ của anh Q) cung cấp thông tin thì; anh Q hiện đang cư trú tại Vương quốc Bỉ, mặc dù không có nơi cư trú cụ thể, nhưng anh Q thường liên lạc điện thoại và mạng xã hội về cho bà Th1và người thân ở trong nước, nên anh Q đã biết được việc chị V làm đơn ly hôn anh và không có ý kiến gì. Việc anh Phạm Xuân Q vắng mặt được xác định, thuộc trường hợp cố tình giấu địa chỉ và không khai báo, do đó đề nghị Hội đồng xét xử giải quyết vụ án theo quy định và cho họ ly hôn nhau và giao ba con chưa thành niên cho chị V tiếp tục nuôi dưỡng; tài sản chung chưa giải quyết.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Về thủ tục tố tụng: Anh Phạm Xuân Q đang cư trú ở nước ngoài, trong quá trình Tòa án thụ lý giải quyết vụ án, theo bà Nguyễn Thị Th1xác định thì, anh Phạm Xuân Q hiện đang cư trú tại Vương quốc Bỉ. Mặc dù, anh Q không cung cấp nơi cư trú của mình, nhưng anh Q thường liên lạc điện thoại và qua mạng xã hội về cho bà Thử, nên anh Q đã biết được việc chị V xin ly hôn anh và cũng không có ý kiến gì. Do đó, việc anh Phạm Xuân Q vắng mặt thuộc trường hợp cố tình giấu địa chỉ; từ chối khai báo. Đối với chị Lê Thị Hồng V đã có quan điểm của mình về việc giải quyết vụ án, nhưng do điều kiện công tác nên chị V đề nghị Tòa án giải quyết và xét xử vắng mặt. Căn cứ khoản 1, khoản 4 Điều 207, khoản 1, khoản 3 Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự, Toà án tiến hành giải quyết và xét xử vụ án theo thủ tục chung để đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp cho đương sự.
Về nội dung: Tại phiên tòa, mặc dù vắng mặt, nhưng chị Lê Thị Hồng V vẫn giữ nguyên nội dung khởi kiện, yêu cầu được ly hôn anh Phạm Xuân Q và nuôi các con chung chưa thành niên. Xét thấy, chị Lê Thị Hồng V và anh Phạm Xuân Q kết hôn với nhau trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn theo quy định. Sau khi kết hôn, hai người chung sống hạnh phúc với nhau đến năm 2012 thì chị V về nước, anh Q vẫn ở nước ngoài nhưng thường xuyên về thăm vợ con. Quá trình chung sống, vợ chồng phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân mâu thuẫn là do quan điểm sống hai người không phù hợp nhau. Đến tháng 10/2020, anh Q tiếp tục xuất cảnh ra nước ngoài và hai người cắt đứt mọi liên lạc, không quan tâm gì đến nhau kể cả vật chất lẫn tinh thần. Nay chị Lê Thị Hồng V xác định, tình cảm vợ chồng không còn; mục đích hôn nhân không đạt được, nên căn cứ khoản 1 điều 56 Luật hôn nhân và gia đình giải quyết cho họ ly hôn để giải phóng cho nhau.
Về nuôi con chung: Chị V và anh Phạm Xuân Q có ba con chung; là cháu Phạm Quyết Th sinh ngày 05/02/2004, cháu Phạm Thị Hoàng L sinh ngày 18/3/2008 và cháu Phạm Hoàng Asinh ngày 06/9/2010, hiện các cháu đang do chị V nuôi dưỡng, chăm sóc. Anh Q đang ở nước ngoài chưa có điều kiện để trực tiếp nuôi dưỡng các con chung, nên cần giao cho chị V tiếp tục nuôi dưỡng, chăm sóc con chung là phù hợp.
Về cấp dưỡng: Hiện chị V chưa yêu cầu và anh Q cũng chưa có ý kiến nên Tòa án chưa xem xét. Người không trực tiếp nuôi con có quyền và nghĩa vụ thăm nom con chung không ai được cản trở.
Tài sản chung và nợ chung của vợ chồng: Hiện tại, chị V chưa yêu cầu giải quyết và anh Phạm Xuân Q cũng chưa có ý kiến gì nên Tòa án chưa có cơ sở để xem xét. Dành quyền khởi kiện cho các đương sự khi có yêu cầu.
Về án phí: Chị Lê Thị Hồng V phải chịu toàn bộ án phí ly hôn sơ thẩm.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Áp dụng khoản 1, khoản 4 Điều 207; Khoản 3 Điều 228; Điều 147; Khoản 1, khoản 2 Điều 479 của Bộ luật tố tụng dân sự và các Điều 53, 56 và các Điều 81, 82, 84 của Luật Hôn nhân và gia đình. Tuyên xử:
1. Về hôn nhân: Cho ly hôn giữa chị Lê Thị Hồng V và anh Phạm Xuân Q.
2. Về nuôi con chung:
2.1. Giao ba con chung: Cháu Phạm Quyết Th sinh ngày 05/02/2004, cháu Phạm Thị Hoàng L sinh ngày 18/3/2008 và cháu Phạm Hoàng A sinh ngày 06/9/2010 cho chị Lê Thị Hồng V trực tiếp nuôi dưỡng.
2.2. Về cấp dưỡng nuôi con chung: Chị Lê Thị Hồng V chưa yêu cầu và anh Phạm Xuân Q chưa có ý kiến nên Tòa án chưa xem xét. Anh Phạm Xuân Q có quyền và nghĩa vụ thăm nom con chung không ai được cản trở.
3. Về tài sản và nợ chung: Dành quyền khởi kiện cho các đương sự khi có yêu cầu.
4. Về án phí: Chị Lê Thị Hồng V phải chịu 300.000 đồng án phí ly hôn sơ thẩm, nhưng được khấu trừ vào 300.000 đồng tiền tạm ứng án phí đã nộp tại Cục thi hành án dân sự tỉnh Nghệ An theo biên lai số 0004865 ngày 24/6/2021.
5. Về quyền kháng cáo:
5.1. Chị Lê Thị Hồng V có quyền kháng cáo lên Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được hoặc được tống đạt hợp lệ bản sao bản án sơ thẩm.
5.2. Anh Phạm Xuân Q đang cư trú ở nước ngoài vắng mặt có quyền kháng cáo lên Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội trong thời hạn 01 tháng kể từ ngày nhận được hoặc được niêm yết bản sao bản án sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
Bản án về tranh chấp hôn nhân và gia đình số 140/2021/HNGĐ-ST
Số hiệu: | 140/2021/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Nghệ An |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 27/09/2021 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về