Bản án về tranh chấp hôn nhân và gia đình số 134/2021/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH BẮC GIANG

BẢN ÁN 134/2021/HNGĐ-ST NGÀY 29/09/2021 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH

Ngày 29 tháng 9 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 106/2021/TLST-HNGĐ ngày 30 tháng 7 năm 2021 về việc tranh chấp Hôn nhân và gia đình.

Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 107/2021/QĐXX-ST ngày 27/8/2021 và Quyết định hoãn phiên tòa số 100/2021/QĐ-ST ngày 13/9/2021 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Anh Nguyễn Tiến Q, sinh ngày: 30/5/1986 (vắng mặt) Địa chỉ: Thôn B, xã T, huyện L, tỉnh Bắc Giang

2. Bị đơn: Chị Nguyễn Thị T, sinh ngày: 07/4/1987 (vắng mặt) Hộ khẩu thường trú: Thôn B, xã T, huyện L, tỉnh Bắc Giang (Hiện nay đang lao động tại nước ngoài không có địa chỉ).

Địa chỉ cuối cùng của chị T tại Việt Nam tại: Thôn G, xã T, huyện L, tỉnh Bắc Giang.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện về việc xin ly hôn và bản tự khai, nguyên đơn anh Nguyễn Tiến Q trình bày:

Trước khi kết hôn hai vợ chồng được tự do tìm hiểu rồi đi đến hôn nhân. Khi cưới được hai bên gia đình tổ chức lễ cưới theo phong tục của địa phương. Hai vợ chồng đăng ký kết hôn ngày 25/10/2007 tại Ủy ban nhân dân xã T, huyện L, tỉnh Bắc Giang nơi anh đăng ký hộ khẩu thường trú. Sau khi kết hôn chị T về nhà anh làm dâu ngay, vợ chồng chung sống hòa thuận. Ngày 10/10/2010 chị T đi lao động tại Đảo Síp. Sau khi đi lao động, hai vợ chồng vẫn thường xuyên gọi điện hỏi thăm và sống hòa thuận nhưng đến tháng 5/2016 thì xảy ra mâu thuẫn. Nguyên nhân do bất đồng quan điểm sống. Trong thời gian vợ chồng mâu thuẫn, hai vợ chồng đã nhiều lần nói chuyện với mong muốn tiếp tục chung sống để chăm sóc con nhưng do bất đồng quan điểm quá lớn nên không có kết quả. Khi hai bên gia đình biết chuyện có gọi điện khuyên bảo hai vợ chồng về đoàn tụ nhưng anh, chị đều xác định không còn tình cảm nên không về đoàn tụ được. Kể từ tháng 5 năm 2016 đến nay anh và chị T không còn gọi điện hỏi thăm sức khỏe của nhau, ai có cuộc sống riêng của người đó. Nay anh xác định tình cảm vợ chồng không còn nên đề nghị Tòa án xử cho anh được ly hôn chị Nguyễn Thị T.

- Về con chung: Vợ chồng có 01 con chung là cháu Nguyễn Thủy T, sinh ngày 05/7/2008. Hiện nay cháu đang sinh sống cùng anh. Anh đề nghị được chăm sóc, nuôi dưỡng con chung sau khi ly hôn. Anh không yêu cầu chị T phải cấp dưỡng nuôi con chung.

Về tài sản chung, công nợ: Anh không yêu cầu Tòa án giải quyết Chị Nguyễn Thị T là bị đơn không có mặt tại địa phương, không gửi văn bản giấy tờ, tài liệu về cho Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Giang.

Tại biên bản làm việc ngày 17/8/2021 và 01/9/2021: Ông Nguyễn Đức D là bố đẻ chị Nguyễn Thị T cung cấp chị T hiện nay đang đi xuất khẩu lao động tại Đảo Síp. Về quan hệ hôn nhân: chị T (con gái ông) đăng ký kết hôn ngày 25/10/2007 tại Ủy ban nhân dân xã T, huyện L, tỉnh Bắc Giang. Sau khi kết hôn con gái ông về nhà anh Q làm dâu ngay và chung sống hòa thuận với gia đình nhà chồng. Khoảng tháng 10/2010 chị T đi lao động tại Đảo Síp. Sau khi đi lao động một thời gian chị có về thăm ông và ở cùng ông 01 tháng rồi tiếp tục đi lao động tại Đảo Síp. Ông không biết các con có mâu thuẫn gì. Việc chị anh Q có đơn xin ly hôn chị T ông không có ý kiến gì, đó là việc của hai con nên ông không can thiệp; về con chung: Vợ chồng có 01 con chung là cháu Nguyễn Thủy T, sinh ngày 05/7/2008. Hiện nay cháu đang sinh sống cùng anh Q; về tài sản chung, công nợ ông không biết.

Cháu Nguyễn Thủy Tiên có đơn trình bầy: Cháu có bố là Nguyễn Tiến Q, mẹ là Nguyễn Thị T. Hiện nay cháu đang học Trường trung học cơ sở T, huyện L, tỉnh Bắc Giang. Cháu được biết bố mẹ chau đang xin ly hôn. Cháu có ý kiến như sau. Cháu hiện nay đang sống cùng bố, được bố chăm sóc nuôi dưỡng rất tốt cả về vật chất lẫn tinh thần, vì vậy bố mẹ cháu ly hôn cháu xin được ở cùng bố.

Tại phiên tòa: Anh Nguyễn Tiến Q vắng mặt và có đơn đề nghị xét xử vắng mặt, chị Nguyễn Thị T đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ 02 nhưng vẫn vắng mặt.

Hội đồng xét xử tóm tắt nội dung vụ án, công bố đơn khởi kiện, bản tự khai của anh Nguyễn Tiến Q; Biên bản làm việc với bố đẻ của chị Nguyễn Thị T và thông qua các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bắc Giang phát biểu về việc tuân theo pháp luật về tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, thư ký Tòa án đã tuân thủ đúng các quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự kể từ khi thụ lý vụ án đến trước thời điểm Hội đồng xét xử vào nghị án.

Về việc chấp hành pháp luật của đương sự: Đối với nguyên đơn anh Nguyễn Tiến Q có đơn xin xét xử vắng mặt thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ tố tụng của mình được quy định trong Bộ luật tố tụng dân sự, bị đơn chị Nguyễn Thị T không có địa chỉ cụ thể ở nước ngoài, Tòa án đã niêm yết đầy đủ các văn bản tố tụng đối với chị T. Căn cứ các quy định của pháp luật xét xử vắng mặt chị T là đúng theo quy định của pháp luật.

- Về nội dung: Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng các Điều 51, 53, 56, 81, 82, 83, 84 và khoản 2 Điều 123, Điều 127 Luật hôn nhân và gia đình; khoản 1 điều 28; khoản 3 Điều 35, điểm c khoản 1 Điều 37, khoản 4 Điều 147, Điều 227, Điều 228, Điều 238, Điều 271, Điều 273, khoản 2 Điều 479 Bộ luật tố tụng dân sự; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTBVQH14 ngày 30/12/2016 Nghị quyết của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của anh Nguyễn Tiến Q.

Xử cho anh Nguyễn Tiến Q được ly hôn chị Nguyễn Thị T.

Về con chung: Do chị T hiện nay đang đi xuất khẩu lao động ở nước ngoài nên đề nghị HĐXX giao con chung là cháu Nguyễn Thủy T, sinh ngày 05/7/2008 cho anh Nguyễn Tiến Q chăm sóc, nuôi dưỡng. Về cấp dưỡng do anh Q không yêu cầu nên không đặt ra xem xét giải quyết. Về tài sản chung, công nợ chung không đặt ra xem xét giải quyết.

Anh Nguyễn Tiến Q phải chịu 300.000 đồng án phí ly hôn sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được công bố tại phiên toà, ý kiến kiểm sát viên. Hội đồng xét xử nhận định:

[1]. Về thủ tục tố tụng: Anh Nguyễn Tiến Q là nguyên đơn có đơn xin xét xử vắng mặt. Hội đồng xét xử căn cứ khoản 1 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự xét xử vắng mặt anh Nguyễn Tiến Q.

Đối với bị đơn chị Nguyễn Thị T vắng mặt tại phiên tòa: Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Giang đã tiến hành làm việc với bố đẻ của chị T là ông Nguyễn Đức D để giao thông báo thụ lý vụ án và đề nghị ông D thông báo cho chị T biết việc Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Giang đang thụ lý vụ giải quyết vụ án tranh chấp Hôn nhân gia đình giữa anh Nguyễn Tiến Q và chị Nguyễn Thị T. Ông D cho biết chị T vẫn thường xuyên liên lạc về gia đình, nhưng chị T không cung cấp cho gia đình, Tòa án địa chỉ cụ thể của chị T tại Đảo Síp. Đây là trường hợp bị đơn cố tình giấu địa chỉ, từ chối khai báo, từ chối cung cấp những tài liệu cần thiết. Do đó, Tòa án đã tiến hành niêm yết các văn bản tố tụng cần tống đạt cho bị đơn và xử vắng mặt bị đơn theo Công văn số 253/TANDTC-PC ngày 26/11/2018 của Tòa án nhân dân Tối cao và khoản 2 Điều 227 của Bộ luật tố tụng dân sự.

[2]. Về thẩm quyền: Anh Nguyễn Tiến Q là nguyên đơn có đơn xin ly hôn chị Nguyễn Thị T. Theo Công văn trả lời số 18033/QLXNC- P5 về việc cung cấp thông tin xuất nhập cảnh ngày 12/8/2021 của Cục Quản lý xuất nhập cảnh - Bộ công an xác định chị T xuất nhập cảnh 03 lần, lần xuất cảnh gần đây nhất là ngày 03/2/2016 hiện chưa có thông tin nhập cảnh trở lại. Vì vậy, chị T được xác định là đang ở nước ngoài. Theo lời khai của nguyên đơn, bố đẻ bị đơn thì nơi cư trú cuối cùng của chị T ở Việt Nam trước khi xuất cảnh lần gần nhất là thôn G, xã T, huyện L, tỉnh Bắc Giang. Do đó, đây là vụ án tranh chấp hôn nhân và gia đình có đương sự ở nước ngoài nên thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Giang, theo quy định tại khoản 1 Điều 28, khoản 3 Điều 35, điểm c khoản 1 Điều 37 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

[3]. Về quan hệ Hôn nhân: Anh Nguyễn Tiến Q và chị Nguyễn Thị T kết hôn trên cơ sở hoàn toàn tự nguyện và có đăng ký kết hôn tại UBND xã Thanh Hải, huyện L, tỉnh Bắc Giang. Đây là hôn nhân hợp pháp cần được pháp luật bảo vệ. Quá trình chung sống phát sinh mâu thuẫn, anh Q xác định tình cảm vợ chồng không còn nên đề nghị Tòa án xử cho anh được ly hôn chị Nguyễn Thị T.

Xét yêu cầu khởi kiện xin ly hôn của anh Nguyễn Tiến Q với chị Nguyễn Thị T. Hội đồng xét xử thấy: Sau khi kết hôn anh Q và chị T chung sống với nhau được một thời gian, sau đó chị T đi xuất khẩu lao động tại Đảo Síp. Thời gian đầu vợ chồng vẫn hoà thuận, nhưng từ tháng 5/2016 đến nay do bất đồng quan điểm sống nên vợ chồng không còn liên lạc với nhau. Anh Q xác định tình cảm vợ chồng không còn nên đã làm đơn yêu cầu Tòa án giải quyết cho anh và chị T được ly hôn. Do đó, cần xác định vợ chồng không còn yêu thương, quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ nhau làm cho hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được. Nên chấp nhận yêu cầu khởi kiện xin ly hôn của anh Q. Xử cho anh Q được ly hôn chị T là phù hợp với Điều 51, Điều 53 và Điều 56 của Luật hôn nhân và gia đình.

[4]. Về nuôi con chung: Anh Q và chị T có 01 con chung là cháu Nguyễn Thủy T, sinh ngày 05/7/2008. Hiện nay cháu đang sinh sống cùng anh Q và do anh Q chăm sóc, nuôi dưỡng. Ly hôn anh Q đề nghị được nuôi con chung.

Xét yêu cầu nuôi con chung của anh Q: Hội đồng xét xử thấy hiện nay chị T đang lao động tại nước ngoài không thể trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung. Chị T từ khi đi nước ngoài thì cháu T vẫn anh Q là người trực tiếp nuôi dưỡng và chăm sóc, cháu phát triển bình thường về thể chất và tình thần, được đi học đầy đủ. Mặt khác, cháu T trên bẩy tuổi có nguyện vọng được ở cùng bố. Nên căn cứ điều 81, 82, 83 Luật hôn nhân và gia đình. Chấp nhận yêu cầu của anh Nguyễn Tiến Q đề nghị được nuôi con chung là Nguyễn Thủy T. Giao cho anh Q là người trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung Nguyễn Thủy T, sinh ngày 05/7/2008 đến khi con chung đủ 18 tuổi hoặc đến khi có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật là phù hợp với điều kiện thực tế cũng như quyền và lợi ích về mọi mặt của con chung. Sau khi ly hôn chị Nguyễn Thị T có quyền thăm nom con chung, không ai được cản trở chị T thực hiện quyền này.

Về cấp dưỡng nuôi con chung: Do anh Q không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không xem xét.

Trường hợp chị Nguyễn Thị T về Việt Nam có nguyện vọng nuôi con chung hoặc vì quyền lợi chính đáng của con chung, các đương sự có quyền khởi kiện yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con sau ly hôn bằng vụ án khác theo quy định tại Điều 84 Luật hôn nhân gia đình.

[5]. Về tài sản, công nợ: Anh Q không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết.

[6]. Về án phí: Anh Nguyễn Tiến Q phải chịu 300.000 đồng án phí Hôn nhân gia đình sơ thẩm theo quy định tại khoản 4 Điều 147 của Bộ luật Tố tụng dân sự; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Toà án nhưng được trừ vào số tiền 300.000 đồng đã nộp tạm ứng án phí tại Cục Thi hành án dân sự tỉnh Bắc Giang.

[7]. Về quyền kháng cáo: Các đương sự được quyền kháng cáo bản án theo quy định tại Điều 271, Điều 273 và khoản 2 Điều 479 Bộ luật tố tụng dân sự.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 53, khoản 1 Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83, Điều 84 và khoản 2 Điều 123, Điều 127 Luật Hôn nhân và gia đình; khoản 1 Điều 28, khoản 3 Điều 35, điểm c khoản 1 Điều 37, khoản 4 Điều 147, Điều 227, Điều 228, Điều 238, Điều 271, Điều 273, khoản 2 Điều 479 Bộ luật Tố tụng dân sự; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Toà án; xử:

1. Về hôn nhân: Anh Nguyễn Tiến Q được ly hôn với chị Nguyễn Thị T.

2. Về nuôi con chung: Giao con chung cháu Nguyễn Thủy T, sinh ngày 05/7/2008 cho anh Nguyễn Tiến Q trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục đến khi đủ 18 tuổi hoặc đến khi có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật. Về cấp dưỡng nuôi con, chị Nguyễn Thị T không phải cấp dưỡng nuôi con. Chị T có quyền thăm nom con chung không ai được cản trở chị T thực hiện quyền này.

3. Về án phí: Anh Nguyễn Tiến Q phải chịu 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) án phí sơ thẩm, nhưng được trừ vào số tiền 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai số 0000093 ngày 30/7/2021 của Cục Thi hành án dân sự tỉnh Bắc Giang. Xác nhận anh Q đã nộp đủ án phí sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo bản án: Anh Nguyễn Tiến Q vắng mặt tại phiên tòa, có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ nhận được tống đạt Bản án hoặc Bản án được niêm yết theo quy định.

Chị Nguyễn Thị T hiện đang ở nước ngoài vắng mặt tại phiên tòa, có thời hạn kháng cáo Bản án là 01 tháng kể từ ngày bản án được tống đạt hợp lệ hoặc bản án được niêm yết theo quy định.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

322
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp hôn nhân và gia đình số 134/2021/HNGĐ-ST

Số hiệu:134/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Bắc Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành:29/09/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về