Bản án về tranh chấp hôn nhân và gia đình số 124/2021/HNGĐ-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ MỸ HÀO, TỈNH HƯNG YÊN

BẢN ÁN 124/2021/HNGĐ-ST NGÀY 16/09/2021 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH

Ngày 16/ 9/ 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã Mỹ Hào, tỉnh Hưng Yên xét xử sơ thẩm công khai vụ án tranh chấp Hôn nhân và gia đình thụ lý số 58/2021/TLST- HNGĐ ngày 30/ 3/ 2021 về việc “Kiện ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 19/2021/QĐXXST-HNGĐ ngày 13/8/2021 và Quyết định hoãn phiên tòa số 14/2021/QĐST-HNGĐ ngày 30/8/2021, giữa các đương sự:

* Nguyên đơn: Chị Lê Thị N, sinh năm 1988 (Có mặt).

Đăng ký HKTT: Tổ dân phố V, phường M, thị xã M1, tỉnh H.

Nơi ở: Thôn P, xã H, thị xã M1, tỉnh H.

* Bị đơn: Anh Phạm Đình H, sinh năm 1985 (Vắng mặt).

Đăng ký HKTT: Tổ dân phố V, phường M, thị xã M1, tỉnh H.

* Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan: Cháu Phạm Đình Thiên Â, sinh ngày 08/12/2018 (Vắng mặt).

Người đại diện theo pháp luật của cháu Â: Chị Lê Thị N, sinh năm 1988.

Đều đăng ký HKTT: Tổ dân phố V, phường M, thị xã M1, tỉnh H.

Đều nơi ở: Thôn P, xã H, thị xã M1, tỉnh H.

Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho cháu Phạm Đình Thiên Ân: Bà Nguyễn Thu Hiền - Trợ giúp viên pháp lý của Trung tâm Trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Hưng Yên (Có mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Chị Lê Thị N và anh Phạm Đình H đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã M, huyện M1 (Nay là phường M, thị xã M1), tỉnh H vào năm 2018 và đã được cấp giấy chứng nhận kết hôn. Sau ngày cưới, chị N về chung sống cùng anh H.

- Nguyên đơn chị Lê Thị N trình bày: Quá trình chung sống, khoảng cuối năm 2019, vợ chồng anh chị mâu thuẫn căng thẳng. Nguyên nhân là do vợ chồng không hợp nhau về quan điểm sống, không thống nhất trong việc làm ăn xây dựng kinh tế gia đình nên vợ chồng xảy ra cãi vã. Do không thể chịu đựng được nữa, nên chị đã đi về nhà bố mẹ ở thôn P, xã H, thị xã M, tỉnh H vào tháng 12 năm 2019, vợ chồng ly thân từ đó, không ai quan tâm đến ai. Mặc dù đã được gia đình khuyên bảo nhưng tình cảm vợ chồng không được cải thiện. Nay chị xác định cuộc sống không hạnh phúc, mâu thuẫn đã trầm trọng, không thể hàn gắn nên không thể sống chung. Vì vậy, chị yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh H để mỗi bên ổn định cuộc sống riêng.

- Bị đơn anh Phạm Đình H: Tòa án đã giải thích pháp luật và giải thích quyền, nghĩa vụ cho anh Phạm Đình H về việc chị N làm đơn khởi kiện xin ly hôn anh và anh trình bày cho Tòa án các quan điểm về quan hệ hôn nhân, con chung, tài sản và các vấn đề khác. Anh H đã rõ nhưng không trình bày với Tòa án về các vấn đề này. Anh có quan điểm đã hiểu rõ quy định của pháp luật nhưng anh không đến Tòa án để làm việc. Vì vậy, Tòa án không lấy được lời khai của anh H.

- Người làm chứng ông Phạm Đình H (bố anh H) trình bày: Ông được biết, chị N đã bỏ đi về nhà ngoại được hơn 01 năm nay và anh chị ly thân từ năm 2019 đến nay. Gia đình khuyên bảo để anh chị hàn gắn mâu thuẫn nhưng đến nay vẫn chưa có kết quả.

[2]. Về con chung: Vợ chồng anh H chị N có 01 con chung là cháu Phạm Đình Thiên Â, sinh ngày 08/12/2018. Hiện cháu  đang ở với chị N. Khi ly hôn, chị N yêu cầu được nuôi cháu  đến khi thành niên và chị tự nguyện không yêu cầu anh H cấp dưỡng nuôi con chung.

[3]. Về tài sản, nợ, công sức và ruộng nông nghiệp: Chị N tự nguyện không yêu cầu Tòa án giải quyết. Anh H không có ý kiến gì.

Quá trình giải quyết vụ án, Toà án đã tiến hành hòa giải đoàn tụ, nhưng không thành. Vì vậy phải đưa vụ kiện ra xét xử tại phiên tòa hôm nay.

Tại phiên toà hôm nay:

- Chị N giữ nguyên quan điểm ban đầu.

- Trợ giúp viên pháp lý đề nghị Hội đồng xét xử xem xét, giải quyết yêu cầu theo yêu cầu của chị N để đảm bảo quyền lợi chính đáng cho cháu  và đương sự theo quy định của pháp luật.

- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã Mỹ Hào phát biểu ý kiến:

Về tố tụng: Toà án thụ lý vụ án, lấy lời khai, thu thập chứng cứ, thông báo về phiên họp kiểm tra về việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải, tiến hành mở phiên họp kiểm tra về việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ, lập biên bản không tiến hành hòa giải được và đưa vụ án ra xét xử đúng theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự. Tại phiên toà, Hội đồng xét xử độc lập, Thẩm phán và Thư ký chấp hành đúng quy định của pháp luật.

Về nội dung: Vị đại diện Viện kiểm sát đề nghị Hội đồng chấp nhận yêu cầu của chị Nhung về việc xin ly hôn anh H; đồng thời đề nghị Hội đồng xét xử giao cháu Phạm Đình Thiên  cho chị N nuôi dưỡng đến khi thành niên và giải các quan hệ khác trong hôn nhân, án phí của vụ án.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra công khai tại phiên tòa và trên cơ sở xem xét khách quan toàn diện các chứng cứ, ý kiến của các đương sự, kiểm sát viên, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng:

Chị Lê Thị N và anh Phạm Đình H đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã M, huyện M1 (nay là phường M, thị xã M1), tỉnh H. Nay chị N khởi kiện xin ly hôn với anh H nên đây là tranh chấp hôn nhân và gia đình thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án theo quy định tại khoản 1 Điều 28 của Bộ luật tố tụng dân sự.

Anh H có địa chỉ cư trú tại tổ dân phố V, phường M, thị xã M nên thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thị xã M1, tỉnh H theo điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự.

[2] Về quan hệ hôn nhân:

Anh H, chị N đăng ký kết hôn tại UBND xã M (nay là phường M) vào năm 2018 nên đây là hôn nhân hợp pháp và được pháp luật bảo hộ.

Quá trình chung sống, chị N và anh H đã phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân do anh chị bất đồng quan điểm sống, về việc xây dựng kinh tế gia đình. Từ cuối năm 2019, chị N về nhà bố mẹ đẻ; đồng thời anh chị ly thân cho đến nay và không quan tâm đến nhau.

Căn cứ vào lời khai của chị N, lời khai của bà Nguyễn Thị M (mẹ đẻ chị N) và ông Phạm Đình H (Bố đẻ anh H), Hội đồng xét xử thấy rằng mâu thuẫn vợ chồng giữa chị N và anh H đã xảy ra trầm trọng và kéo dài; tình cảm vợ chồng không còn; thời gian ly thân đã lâu. Vì vậy, Hội đồng xét xử sẽ chấp nhận yêu cầu của chị N về việc xin ly hôn anh H.

[3] Về con chung: Chị N và anh H có 01 con chung là cháu Phạm Đình Thiên Â, sinh ngày 08/12/2018. Ly hôn, chị N yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị được nuôi dưỡng cháu Ân đến khi thành niên. Vấn đề này Hội đồng xét xử thấy rằng cháu  còn nhỏ, hiện tại đang ở với chị N; chị N có nơi ở và thu nhập ổn định. Vì vậy, Hội đồng xét xử sẽ giao cháu  cho chị N nuôi dưỡng đến trưởng thành theo đúng quy định tại khoản 3 điều 81 - Luật hôn nhân gia đình 2014; đồng thời Hội đồng xét xử ghi nhận sự tự nguyện của chị N không yêu cầu anh H cấp dưỡng phí tổn nuôi cháu Â.

[4] Về tài sản, công nợ, công sức và ruộng nông nghiệp: Chị N tự nguyện không yêu cầu giải quyết. Anh H không có ý kiến gì. Vì vậy, các vấn đề này không đặt ra để giải quyết trong vụ án này. Nếu sau này, anh chị có yêu cầu sẽ được xem xét, giải quyết bằng một vụ kiện khác.

[5] Về án phí: Đương sự phải chịu án phí sơ thẩm ly hôn theo quy định tại Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

[1]. Về điều luật áp dụng: Căn cứ các điều 51, 57, 73, 81, 82, 83, 84 - Luật hôn nhân và gia đình;

[2]. Về quan hệ hôn nhân: Xử cho chị Lê Thị N được ly hôn anh Phạm Đình H.

[3]. Về con chung:

- Giao cháu Phạm Đình Thiên Â, sinh ngày 08/12/2018 cho chị N nuôi dưỡng đến khi thành niên. Ghi nhận sự tự nguyện của chị N không yêu cầu anh H phải cấp dưỡng phí tổn nuôi con chung.

- Anh H có quyền thăm và chăm sóc con chung; không ai được cản trở anh H thực hiện quyền này. Hai bên có quyền yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con và việc cấp cấp dưỡng nuôi con chung sau ly hôn.

[4]. Về tài sản, nợ, công sức và ruộng nông nghiệp: Không đặt ra để giải quyết trong vụ án này. Nếu sau này, anh chị có yêu cầu sẽ được xem xét, giải quyết bằng một vụ kiện khác.

[5]. Về án phí: Chị Lê Thị N phải chịu 300.000đ án phí sơ thẩm ly hôn. Đối trừ số tiền tạm ứng án 300.000đ chị N đã nộp theo Biên lai thu tạm ứng án phí số 0004413 ngày 30/3/2021 của Chi cục Thi hành án dân sự thị xã M1, tỉnh H. Chị N đã nộp xong án phí sơ thẩm ly hôn.

[6]. Quyền kháng cáo: Án xử công khai sơ thẩm, nguyên đơn có mặt được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án; Bị đơn và Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày, kể từ ngày bản án được tống đạt hợp lệ./

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

293
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp hôn nhân và gia đình số 124/2021/HNGĐ-ST

Số hiệu:124/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Mỹ Hào - Hưng Yên
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 16/09/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về