Bản án về tranh chấp hôn nhân và gia đình số 116/2021/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN GIỒNG RIỀNG, TỈNH KIÊN GIANG

BẢN ÁN 116/2021/HNGĐ-ST NGÀY 28/12/2021 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH

Ngày 28 tháng 12 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Giồng Riềng, tỉnh Kiên Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 173/2021/TLST-HNGĐ ngày 16 tháng 4 năm 2021 về “Tranh chấp hôn nhân và gia đình - Ly hôn, nuôi con khi ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 205/2021/QĐXXST-HNGĐ ngày 02 tháng 12 năm 2021, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Trần Mai D, sinh năm: 1991 (có mặt).

Địa chỉ: Ấp S, xã N, huyện G, tỉnh Kiên Giang.

2. Bị đơn: Anh Giàu Văn T, sinh năm: 1990 (có đơn đề nghị vắng mặt).

Địa chỉ: Ấp M, xã X, huyện GR, tỉnh Kiên Giang.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện ngày 19/10/2020 và quá trình giải quyết vụ án, chị Trần Mai D là nguyên đơn trình bày:

Hôn nhân giữa chị và anh T được mai mối, sau thời gian tự tìm hiểu được cha, mẹ hai bên đồng ý tổ chức kết hôn cho vào năm 2014, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã X, huyện Giồng Riềng. Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống với cha, mẹ chồng tại ấp M, xã X, chung sống hạnh phúc đến tháng cuối năm 2017 thì phát sinh mâu thuẫn do bất đồng quan điểm sống, anh T chơi cờ bạc, không lo làm ăn và thiếu trách nhiệm với vợ, con. Sau đó, hai vợ chồng cùng đi làm thuê tại thành phố Y, tỉnh Kiên Giang một thời gian (hơn 20 tháng). Tháng 6/2020, mâu thuẫn vợ chồng càng trầm trọng hơn nên chị về nhà cha, mẹ ruột ở và tự chấm dứt quan hệ vợ chồng với anh T cho đến nay. Trong thời gian sống ly thân cha, mẹ hai bên có tác động cho vợ chồng tự hàn gắn tình cảm nhưng chị không đồng ý.

Quá trình chung sống chị và anh T có một người con chung là cháu Giàu Thành F, sinh ngày 23/01/2016 do chị trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng.

Theo đơn khởi kiện chị yêu cầu Tòa án giải quyết: Về quan hệ hôn nhân yêu cầu được ly hôn với anh T; về con chung chị yêu cầu được quyền nuôi cháu F và yêu cầu anh T cấp dưỡng nuôi con theo quy định của pháp luật. Tuy nhiên, tại phiên tòa, chị xác định có thu nhập ổn định, đủ điều kiện nuôi con nên tự nguyện rút lại yêu cầu về cấp dưỡng nuôi con, không yêu cầu anh T phải cấp dưỡng nuôi con, chị vẫn đảm bảo quyền thăm con cho anh T.

Về tài sản và nợ: Chị D không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Theo bản tự khai anh Giàu Văn T là bị đơn trình bày:

Hôn nhân giữa anh và chị D được mai mối, sau thời gian tìm hiểu hai bên tự nguyện kết hôn, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã X, huyện GR. Chung sống hạnh phúc đến tháng 6/2020 thì phát sinh mâu thuẫn do anh có đi chơi, nhậu, thiếu sự quan tâm đối với vợ, con. Tháng 7/2020, chị D về nhà cha, mẹ ruột ở ly thân với anh cho đến nay, kể từ sau khi chị D bỏ đi, anh đã thay đổi tính tình không còn tụ tập đi chơi, không còn uống rượu, bia, anh cũng có điện thoại liên hệ với chị D nhưng chị D không chịu về chung sống. Anh xác định vợ chồng không có mâu thuẫn trầm trọng nên không đồng ý ly hôn với chị D.

Về con: Anh và chị D có một người con là cháu Giàu Thành F, sinh ngày 23/01/2016 do chị D trực tiếp nuôi dưỡng. Trường hợp, Tòa án giải quyết cho ly hôn anh đồng ý để chị D tiếp tục nuôi dưỡng con chung nhưng phải đảm bảo quyền thăm con cho anh.

Về tài sản và nợ: Anh T không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Kiểm sát viên phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký và của Người tham gia tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án; ý kiến về việc giải quyết vụ án:

Thẩm phán xác định quan hệ tranh chấp, tư cách đương sự, thẩm quyền giải quyết vụ án, xem xét việc thụ lý vụ án, cấp tống đạt, thông báo các văn bản tố tụng, tiến hành thu thập chứng cứ và thời hạn gửi hồ sơ cho Viện kiểm sát đúng theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.

Việc tuân theo pháp luật của Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và của đương sự đã thực hiện đúng theo các quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.

Về việc giải quyết vụ án: Chị D và anh T tự nguyện kết hôn 2014, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã X, huyện GR nên hôn nhân của anh, chị là hợp pháp. Chị D xác định mâu thuẫn vợ chồng đã trầm trọng, chị không còn tình cảm và không thể tiếp tục chung sống với anh T nên cương quyết yêu cầu được ly hôn. Mặc dù, anh T không đồng ý ly hôn nhưng không đến Tòa án để tham dự phiên hòa giải, phiên tòa để đưa ra biện pháp nhằm hàn gắn tình cảm vợ chồng. Xét thấy, hôn nhân của chị D và anh T đã lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Căn cứ khoản 1 Điều 56 của Luật hôn nhân và gia đình, đề nghị chấp nhận yêu cầu ly hôn của chị D đối với anh T.

Về con: Chị D và anh T có một người con chung là cháu Giàu Thành F, sinh ngày 23/01/2016 đang được chị D chăm sóc, nuôi dưỡng ổn định, theo bản tự khai anh T đồng ý giao cho chị D được quyền chăm sóc, nuôi dưỡng. Do đó, căn cứ khoản 2 Điều 81 của Luật hôn nhân và gia đình, đề nghị giao cháu F cho chị D được quyền chăm sóc, nuôi dưỡng. Về cấp dưỡng: Chị D tự nguyện rút yêu cầu về cấp dưỡng nuôi con khi ly hôn với anh T. Căn cứ khoản 2 Điều 244 của Bộ luật Tố tụng dân sự, đề nghị chấp nhận và đình chỉ xét xử, nếu có tranh chấp anh, chị có quyền làm đơn yêu cầu Tòa án giải quyết trong một vụ việc khác.

Về tài sản và nợ: Chị D và anh T không yêu cầu Tòa án giải quyết, đề nghị Hội đồng xét xử không xét.

Về án phí: Đề nghị buộc chị D phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm là 300.000 đồng.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa, kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1]. Về tố tụng: Chị Trần Mai D yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn, nuôi con với anh Giàu Văn T đây là tranh chấp về ly hôn, nuôi con khi ly hôn theo quy định tại khoản 1 Điều 28 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

Anh Giàu Văn T là bị đơn cư trú tại huyện GR, tỉnh Kiên Giang. Căn cứ khoản 1 Điều 35 và khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự thì vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Giồng Riềng, tỉnh Kiên Giang. Anh T có đơn đề nghị vắng mặt hợp lệ, căn cứ vào khoản 1 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án xét xử vắng mặt anh T.

[2]. Về nội dung vụ án: Chị D và anh T kết hôn năm 2014, hôn nhân trên cơ sở tự nguyện, đăng ký kết hôn ngày 28/5/2014 tại Ủy ban nhân dân xã X, huyện GR, tỉnh Kiên Giang nên quan hệ hôn nhân giữa anh, chị là hợp pháp. Chị D xác định vợ chồng chung sống hạnh phúc đến tháng 6/2020 thì phát sinh mâu thuẫn trầm trọng do bất đồng quan điểm sống, anh T chơi cờ bạc, không lo làm ăn và thiếu trách nhiệm với vợ, con. Kể từ tháng 6/2020 cho đến nay, chị và anh T đã tự chấm dứt quan hệ vợ chồng không còn quý trọng, chăm sóc, giúp đỡ nhau và trong thời gian sống ly thân anh, chị tự hàn gắn tình cảm để tiếp tục chung sống nhưng không đạt kết quả. Do đó, chị D và anh T đều vi phạm nghiêm trọng về quyền, nghĩa vụ của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân.

Kết quả xác minh nguyên nhân phát sinh mâu thuẫn giữa chị D và anh T tại nơi cư trú, Trưởng ấp M, xã X, huyện GR cung cấp: Không biết được nguyên nhân phát sinh mâu thuẫn giữa chị D và anh T.

Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án tiến hành thủ tục hòa giải để giải quyết mâu thuẫn, tạo điều kiện hàn gắn tình cảm vợ chồng cho chị D và anh T nhưng không đạt kết quả do anh T có đơn đề nghị vắng mặt, chị D cương quyết yêu cầu được ly hôn và xác định không còn tình cảm với anh T. Mặc dù, anh T không đồng ý ly hôn nhưng không đến Tòa án để đưa ra biện pháp thuyết phục chị D nhằm hàn gắn tình cảm vợ chồng, điều này cho thấy tình cảm vợ chồng của anh, chị đã phai nhạt, mâu thuẫn vợ chồng đã đến mức trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Căn cứ khoản 1 Điều 56 của Luật hôn nhân và gia đình, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu ly hôn của chị D đối với anh T.

Về con: Chị D và anh T có một người con chung là Giàu Thành F, sinh ngày 23/01/2016. Xét yêu cầu nuôi con của chị D, Hội đồng xét xử thấy rằng: Cháu F đang được chị D chăm sóc, nuôi dưỡng ổn định đảm bảo sự phát triển về mọi mặt, trong thời gian chị nuôi dưỡng không gây khó khăn cho anh T trong việc thăm nom, chăm sóc. Mặt khác, theo bản tự khai anh T có ý kiến nếu Tòa án giải quyết cho ly hôn thì anh đồng ý để chị D tiếp tục nuôi con. Vì vậy, căn cứ khoản 2 Điều 81 của Luật hôn nhân và gia đình, Hội đồng xét xử chấp nhận giao cháu F cho chị D tiếp tục chăm sóc, nuôi dưỡng. Về cấp dưỡng: Chị D xác định có thu nhập ổn định và đủ điều kiện nuôi con nên tự nguyện rút yêu cầu về cấp dưỡng nuôi con khi ly hôn với anh T. Xét thấy, việc rút yêu cầu về cấp dưỡng nuôi con của chị D là tự nguyện, không trái với quy định pháp luật. Căn cứ khoản 2 Điều 244 của Bộ luật Tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử chấp nhận và đình chỉ xét xử. Trừ trường hợp có yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con và cấp dưỡng nuôi con theo quy định của pháp luật. Anh T được quyền đến thăm nom, chăm sóc và giáo dục con chung không ai được quyền cản trở.

Việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con; nghĩa vụ, quyền của cha, mẹ không trực tiếp nuôi con; nghĩa vụ, quyền của cha, mẹ trực tiếp nuôi con đối với người không trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn được thực hiện theo quy định tại các Điều 81, Điều 82, Điều 83 và Điều 84 của Luật hôn nhân và gia đình.

Về tài sản và nợ: Chị D và anh T không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không xét.

[3]. Về án phí: Căn cứ khoản 4 Điều 147 của Bộ luật Tố tụng dân sự; khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Chị D phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm là 300.000 đồng.

[4]. Đề nghị của đại diện Viện kiểm sát về việc giải quyết vụ án là có căn cứ nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào: Khoản 1 Điều 28, khoản 1 Điều 35, khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 147, khoản 1 Điều 228, khoản 2 Điều 244, Điều 266, Điều 271 và Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự;

Khoản 1 Điều 56, Điều 57, Điều 81, Điều 82, Điều 83 và Điều 84 của Luật hôn nhân và gia đình;

Khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1. Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu ly hôn của chị Trần Mai D đối với anh Giàu Văn T.

2. Về con: Chị Trần Mai D được quyền tiếp tục chăm sóc, nuôi dưỡng cháu Giàu Thành F, sinh ngày 23/01/2016, anh Giàu Văn T không phải cấp dưỡng nuôi con do chị D không yêu cầu. Trừ trường hợp có yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con và cấp dưỡng nuôi con theo quy định của pháp luật.

Anh T được quyền đến thăm nom, chăm sóc và giáo dục con chung không ai được quyền cản trở.

3. Về án phí: Chị Trần Mai D phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) nhưng được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0002360 ngày 16/4/2021 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện GR, tỉnh Kiên Giang, chị D đã nộp đủ án phí sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo: Chị Trần Mai D có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn luật định là 15 ngày, kể từ ngày tuyên án là ngày 28/12/2021; anh Giàu Văn T có quyền kháng cáo trong thời hạn luật định 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được tống đạt hợp lệ theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

225
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp hôn nhân và gia đình số 116/2021/HNGĐ-ST

Số hiệu:116/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Giồng Riềng - Kiên Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 28/12/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về