Bản án về tranh chấp hôn nhân và gia đình số 115/2021/HNGĐ-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THANH CHƯƠNG, TỈNH NGHỆ AN

BẢN ÁN 115/2021/HNGĐ-ST NGÀY 13/08/2021 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH

 Ngày 13 tháng 8 năm 2021, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Thanh Chương, tỉnh Nghệ An. Xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 88/2021/TLST- HNGĐ ngày 17/6/2021, về việc tranh chấp hôn nhân và gia đình. Theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 87/2021/QĐXXST-HNGĐ, ngày 02/8/2021 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Lê TH, sinh năm 1997. Địa chỉ: Thôn Thành Tứ, xã TL, huyện Thanh Chương, tỉnh Nghệ An. Có mặt

2. Bị đơn: Anh Trần VT, sinh năm 1991. Địa chỉ: Thôn Thành Tứ, xã TL, huyện Thanh Chương, tỉnh Nghệ An. Có mặt

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn xin ly hôn, bản tự khai và lời trình bày tại phiên tòa, nguyên đơn Chị Lê TH, trình bày như sau:

- Về hôn nhân: Chị Lê TH kết hôn với anh Trần VT vào ngày 10/3/2016 trên cơ sở tự nguyện, tìm hiểu và có đăng ký kết hôn tại UBND xã TL, huyện Thanh Chương. Sau khi kết hôn vợ chồng sống tại xã TL và thuê ốt để ở riêng. Tình cảm vợ chồng sau khi cưới bình thường, đến đầu năm 2018 thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân mâu thuẫn là do tính tình vợ chồng không hợp nhau, kinh tế vợ chồng gặp nhiều khó khăn, chồng hay ghen tuông rồi về đánh đập vợ nhiều lần, nên chị phải nhờ chính quyền can thiệp. Mâu thuẫn trầm trọng nhất từ tháng 10/2020, nên chị đã về bên ngoại sống, sau đó được nội ngoại khuyên giải, chị đã quay về sống chung; nhưng chứng nào tật nấy, đến tháng 5/2021 anh lại tiếp tục ghen tuông và xúc phạm đánh đập chị, phải nhờ tới chính quyền chị mới ra khỏi nhà và về bên ngoại ở xóm 4, xã Hạnh Lâm, huyện Thanh Chương, để sống ly thân từ đó đến nay. Nay chị Lê TH xét thấy tình cảm vợ chồng không còn nữa, nên xin được ly hôn anh Trần VT.

- Về trách nhiệm nuôi con: Vợ chồng có 02 con chung với nhau tên là Trần Lê Bảo Trâm, sinh ngày 17/7/2016 và Trần Lê Bảo Anh, sinh ngày 08/9/2018; hiện nay 02 con đang ở với chị. Ly hôn chị Lê TH xin được nuôi cả 02 con và không yêu cầu chồng cấp dưỡng nuôi con.

- Về tài sản và nợ: Chị không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Ngoài các ý kiến trên chị không có thêm bất cứ ý kiến hay yêu cầu gì thêm.

Bị đơn là anh Trần VT trình bày như sau:

- Về hôn nhân: Anh kết hôn với chị Lê TH vào ngày 10/3/2016 trên cơ sở tự nguyện, tìm hiểu và có đăng ký kết hôn tại UBND xã TL, huyện Thanh Chương. Sau khi kết hôn vợ chồng sống tại xã TL và thuê ốt để ở riêng. Tình cảm vợ chồng sau khi cưới bình thường, đến đầu năm 2018 thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân mâu thuẫn là do tính tình vợ chồng không hợp nhau, kinh tế vợ chồng gặp nhiều khó khăn, nên anh có xúc phạm đến vợ, do thiếu tin tưởng vợ, nên anh có ghen tuông. Mâu thuẫn trầm trọng nhất từ tháng 5/2021, nên chị Lê TH đã về bên ngoại sống, hai vợ chồng sống ly thân từ đó đến nay. Nay vợ làm đơn xin ly hôn, anh xét thấy tình cảm vợ chồng đang còn; sai là do ở anh, nên anh sẽ sửa chữa để vợ chồng trở về đoàn tụ. Nên xin được đoàn tụ và không muốn ly hôn.

- Về trách nhiệm nuôi con: Vợ chồng có 02 con chung với nhau tên là Trần Lê Bảo T, sinh ngày 17/7/2016 và Trần Lê Bảo A, sinh ngày 08/9/2018; hiện nay chị Lê TH đưa cả hai cháu về bên ngoại, anh không muốn ly hôn, nên đồng ý để 02 con ở cùng vợ.

- Về tài sản và nợ: Anh không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Ngoài các ý kiến trên tôi không có thêm bất cứ ý kiến hay yêu cầu gì thêm.

Đại diện Viện kiểm sát tham gia phiên tòa phát biểu ý kiến: Trong quá trình giải quyết vụ án, Thẩm phán, Hội đồng xét xử đã tuân thủ đúng các quy định của pháp luật về mặt thủ tục tố tụng. Còn về nội dung, đề nghị Hội đồng xét xử cho chị Lê TH được ly hôn anh Trần VT; về con: Giao cho chị Lê TH trực tiếp nuôi dưỡng 02 con chung và tạm hoãn cấp dưỡng nuôi con cho anh Trần VT; còn về tài sản, không có yêu cầu nên không xem xét. Chị Lê TH phải chịu án phí ly hôn theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có tại hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên toà và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà. Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Cuộc hôn nhân giữa chị Lê TH và anh Trần VT, được xác lập trên cơ sở tự nguyện tìm hiểu và có đăng ký kết hôn với nhau vào ngày 10/3/2016 tại UBND xã TL, huyện Thanh Chương, tỉnh Nghệ An. Sau khi kết hôn vợ chồng thuê ốt ở để làm ăn sinh sống tại xã TL, huyện Thanh Chương, tỉnh Nghệ An. Đến đầu năm 2018 thì phát sinh mâu thuẫn và đến tháng 5/2021 thì vợ chồng mâu thuẫn trầm trọng. Nguyên nhân vợ chồng mâu thuẫn là do tính tình vợ chồng không hợp nhau, vợ chồng có sự nghi kỵ ghen tuông lẫn nhau; nên vợ chồng đã sống ly thân từ tháng 05/2021 cho đến nay. Sau khi thụ lý vụ án, Tòa án đã triệu tập để công khai chứng cứ và hòa giải, nhưng chị Lê TH vẫn nhất quyết xin ly hôn, còn anh Trần VT cũng mong muốn vợ chồng được đoàn tụ; tại phiên tòa hôm nay chị Lê TH vẫn nhất quyết xin ly hôn, anh Trần VT vẫn mong muốn được đoàn tụ để nuôi dạy con cái. Xét thấy tình cảm của vợ chồng phải xuất phát từ hai phía, chị Lê TH thì nhất quyết ly hôn, vì vợ chồng không thể níu kéo được nữa. Điều đó chứng tỏ tình trạng vợ chồng đã thực sự trầm trọng, mục đích của hôn nhân không đạt được, cuộc sống chung không thể kéo dài, việc xin ly hôn của chị Lê TH, là hoàn toàn phù hợp với Điều 51, 56 Luật hôn nhân và gia đình, nên chấp nhận cho chị Lê TH được ly hôn anh Trần VT.

[2] Về trách nhiệm nuôi con: Vợ chồng có với nhau 02 con chung với nhau tên là Trần Lê Bảo T, sinh ngày 17/7/2016 và Trần Lê Bảo A, sinh ngày 08/9/2018; hiện nay chị Lê TH đang trực tiếp nuôi dưỡng 02 cháu, anh Trần VT cũng đồng ý để 02 con cho vợ nuôi dưỡng. Cho nên cần giao cho chị Lê TH trực tiếp nuôi dưỡng 02 con chung và tạm hoãn cấp dưỡng nuôi con là hoàn toàn phù hợp với Điều 81, 82, 83, 84 Luật Hôn nhân và gia đình.

[3] Về chia tài sản chung: Các đương sự không yêu cầu Tòa án giải quyết, nên Tòa án không xem xét giải quyết về phần tài sản.

[4] Về án phí: Chị Lê TH phải chịu án phí ly hôn theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên ;

QUYẾT ĐỊNH

 Căn cứ vào: Khoản 1 Điều 28; Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự. Điều 51; 56; 81; 82; 83; 84 Luật hôn nhân và gia đình. Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội, quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Xử:

1. Về hôn nhân: Cho chị Lê TH được ly hôn anh Trần VT.

2. Về trách nhiệm nuôi con: Giao cho chị Lê TH trực tiếp nuôi dưỡng 02 con chung tên là Trần Lê Bảo T, sinh ngày 17/7/2016 và Trần Lê Bảo A, sinh ngày 08/9/2018. Tạm hoãn việc cấp dưỡng nuôi con cho anh Trần VT.

Anh Trần VT, có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung mà không ai được cản trở.

Trường hợp Bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 của Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án được thực hiện theo quy định các Điều 6, 7 và 9 của Luật thi hành án dân sự. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 của Luật thi hành án dân sự.

3. Về chia tài sản chung: Tòa án không xem xét.

4. Về án phí: Chị Lê TH : 300 (Ba trăm ngàn đồng  hôn. Chị Lê TH, được 300 ( Ba trăm ngàn đồng)  án heo biên lai 0004682 17/6/2021 , tỉnh Nghệ An.

5. Nguyên đơn, bị đơn có quyền kháng cáo lên Tòa án cấp trên trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

174
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp hôn nhân và gia đình số 115/2021/HNGĐ-ST

Số hiệu:115/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thanh Chương - Nghệ An
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 13/08/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về