Bản án về tranh chấp hôn nhân và gia đình số 102/2021/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN GIỒNG RIỀNG, TỈNH KIÊN GIANG

BẢN ÁN 102/2021/HNGĐ-ST NGÀY 24/11/2021 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH

Ngày 24 tháng 11 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Giồng Riềng, tỉnh Kiên Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 85/2021/TLST - HNGĐ ngày 09 tháng 3 năm 2021 về “Tranh chấp hôn nhân và gia đình - Ly hôn, nuôi con khi ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 192/2021/QĐXXST - HNGĐ ngày 11 tháng 11 năm 2021, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Trần Thị Như Y, sinh năm: 2000 (có mặt).

Địa chỉ: Ấp L, xã T, huyện GR, tỉnh Kiên Giang.

2. Bị đơn: Anh Trần Văn D, sinh năm: 1990 (có đơn đề nghị vắng mặt).

Địa chỉ: Ấp L, xã T, huyện GR, tỉnh Kiên Giang.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện ngày 28/12/2020 và quá trình giải quyết vụ án, chị Trần Thị Như Y là nguyên đơn trình bày:

Hôn nhân giữa chị và anh D được mai mối, sau thời gian tự tìm hiểu được cha, mẹ hai bên đồng Y tổ chức lễ cưới cho vào năm 2016. Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống với cha, mẹ chồng, chung sống hạnh phúc đến tháng 01/2020 thì phát sinh mâu thuẫn do bất đồng quan điểm sống, cuộc sống hằng ngày thường cự cãi nhau, anh D không lo làm ăn. Tháng 6/2020, mâu thuẫn vợ chồng càng trầm trọng hơn nên chị về nhà ruột ở một thời gian, sau đó đi làm thuê tại tỉnh Tây Ninh, thỉnh thoảng mới về nơi cư trú thăm các con và tự chấm dứt quan hệ vợ chồng với anh D. Trong thời gian sống ly thân hai bên có tự hàn gắn tình cảm vợ chồng và đến Ủy ban nhân dân xã T đăng ký kết hôn nhưng sau khi đăng ký kết hôn thì hai bên cũng không quan tâm nhau, chị cảm thấy không còn tình cảm và không thể chung sống với anh D được nữa.

Quá trình chung sống chị và anh D có hai người con chung là cháu Trần Thảo L1, sinh ngày 18/4/2017 và cháu Trần Thảo L2, sinh ngày 27/9/2018 do anh D trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng từ trước đến nay.

Trong thời gian sống chung chị và anh D không có tạo lập được tài sản chung và không có phát sinh nợ chung.

Theo đơn khởi kiện chị yêu cầu Tòa án giải quyết: Về quan hệ hôn nhân yêu cầu được ly hôn với anh D; về con chung chị yêu cầu được quyền nuôi các con chung và yêu cầu anh D cấp dưỡng nuôi con theo quy định của pháp luật. Tuy nhiên, tại phiên tòa chị xác định anh D có đủ điều kiện nuôi con, đảm bảo sự phát triển về mọi mặt của con và không gây khó khăn cho chị trong việc thực hiện quyền thăm con. Do đó, giữa chị và anh D đã thỏa thuận về người trực tiếp nuôi con, cụ thể: Chị đồng Y giao cháu L1 và cháu L2 cho anh D được quyền tiếp tục nuôi dưỡng, chị không tự nguyện cấp dưỡng nuôi con; về tài sản chung và nợ chung chị không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Theo bản tự khai anh Trần Văn D là bị đơn trình bày:

Anh và chị Y kết hôn năm 2016, hôn nhân trên cơ sở tự nguyện, chung sống đến năm 2020 thì phát sinh mâu thuẫn do không hợp nhau, bất đồng quan điểm sống. Tháng 7/2020, chị Y tự bỏ nhà đi sống ly thân với anh, trong thời gian sống ly thân hai bên có tự hàn gắn tình cảm vợ chồng và đi đăng ký kết hôn theo quy định để tiếp tục chung sống nhưng không đạt kết quả, do chị Y không chịu về sống chung.

Quá trình chung sống anh và chị Y có hai người con chung là cháu Trần Thảo L1, sinh ngày 18/4/2017 và cháu Trần Thảo L2, sinh ngày 27/9/2018, các con chung do anh trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng.

Trong thời gian sống chung anh và chị Y không có tạo lập được tài sản chung và không có phát sinh nợ chung.

Đối với yêu cầu khởi kiện của chị Y, anh có ý kiến như sau: Anh đồng ý ly hôn với chị Y; về con anh có nguyện vọng và yêu cầu được quyền nuôi các con chung, anh có đủ điều kiện nuôi con nên không yêu cầu chị Y phải cấp dưỡng nuôi con và vẫn đảm bảo quyền thăm con cho chị Y. Mặt khác, hai bên đã thỏa thuận chị Y đồng ý để anh được quyền nuôi cháu L1 và cháu L2; về tài sản chung và nợ chung anh thống nhất không yêu cầu Tòa án giải quyết, vì lý do bận công việc và giữ các con nên anh đề nghị được vắng mặt trong quá trình giải quyết vụ án, kể cả phiên tòa xét xử.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa, kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1]. Về tố tụng: Chị Trần Thị Như Y yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn, nuôi con với anh Trần Văn D đây là tranh chấp về ly hôn, nuôi con khi ly hôn theo quy định tại khoản 1 Điều 28 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

Anh Trần Văn D là bị đơn cư trú tại huyện GR, tỉnh Kiên Giang. Căn cứ khoản 1 Điều 35 và khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự thì vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Giồng Riềng, tỉnh Kiên Giang. Anh D có đơn đề nghị vắng mặt hợp lệ, căn cứ vào khoản 1 Điều 227 của Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án xét xử vắng mặt anh D.

[2]. Về nội dung vụ án: Chị Y và anh D chung sống với nhau như vợ chồng kể từ năm 2016 đến tháng 4/2021, hai bên tự nguyện đến Ủy ban nhân dân xã T, huyện GR đăng ký kết hôn và được cấp giấy chứng nhận kết hôn số 43 ngày 04/5/2021 nên quan hệ hôn nhân giữa anh, chị là hợp pháp, kể từ thời điểm đăng ký kết hôn. Chị Y xác định vợ chồng chung sống hạnh phúc đến tháng 01/2020 thì xảy ra mâu thuẫn do bất đồng quan điểm sống, cuộc sống hằng ngày thường cự cãi nhau, anh D không lo làm ăn, tháng 6/2020, mâu thuẫn vợ chồng càng trầm trọng hơn nên chị và anh D tự chấm dứt quan hệ vợ chồng, sau đó hai bên có tự hàn gắn tình cảm vợ chồng và đến Ủy ban nhân dân xã T, huyện GR đăng ký kết hôn theo quy định. Sau khi đăng ký kết hôn hai bên thừa nhận không còn quý trọng, chăm sóc, giúp đỡ nhau, người nào chỉ biết bổn phận người đó. Do đó, chị Y và anh D đều vi phạm nghiêm trọng về quyền, nghĩa vụ của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân.

Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án tiến hành thủ tục hòa giải để giải quyết mâu thuẫn, tạo điều kiện hàn gắn tình cảm vợ chồng cho chị Y và anh D nhưng không đạt kết quả do chị Y cương quyết yêu cầu được ly hôn và anh D thống nhất ly hôn với chị Y và có đơn đề nghị vắng mặt, điều này cho thấy chị Y và anh D không còn tình cảm với nhau, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Do đó, chị Y yêu cầu ly hôn với anh D là có căn cứ, phù hợp theo quy định tại khoản 1 Điều 56 của Luật hôn nhân và gia đình nên được Hội đồng xét xử chấp nhận.

Về con: Chị Y và anh D có hai người con chung là cháu Trần Thảo L1, sinh ngày 18/4/2017 và cháu Trần Thảo L2, sinh ngày 27/9/2018. Theo đơn khởi kiện chị Y yêu cầu được quyền nuôi các con chung, yêu cầu anh D cấp dưỡng nuôi con theo quy định của pháp luật. Tuy nhiên, quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa chị Y xác định giữa chị và anh D đã thỏa thuận về người trực tiếp nuôi con, cụ thể: Chị đồng Y giao cháu L1 và cháu L2 cho anh D được quyền tiếp tục chăm sóc, nuôi dưỡng, chị không tự nguyện cấp dưỡng nuôi con. Hội đồng xét xử thấy rằng: Chị Y thừa nhận cháu L1 và cháu L2 từ trước đến nay do anh D trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng ổn định đảm bảo sự phát triển về mọi mặt, anh D đủ điều kiện nuôi con, không gây khó khăn cho chị trong việc thực hiện quyền thăm con. Mặt khác, theo bản tự khai anh D có nguyện vọng và yêu cầu được quyền nuôi cháu L1 và cháu L2. Do đó, việc thỏa thuận nuôi con khi ly hôn giữa chị Y và anh D là tự nguyện, không trái với quy định của pháp luật và phù hợp theo khoản 2 Điều 81 của Luật hôn nhân và gia đình, Hội đồng xét xử chấp nhận giao cháu L1 và cháu L2 cho anh D được quyền nuôi dưỡng, chị Y không phải cấp dưỡng nuôi con do anh D không yêu cầu. Trừ trường hợp có yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con và cấp dưỡng nuôi con theo quy định của pháp luật. Chị Y được quyền đến thăm nom, chăm sóc và giáo dục con chung không ai được quyền cản trở.

Việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con; nghĩa vụ, quyền của cha, mẹ không trực tiếp nuôi con; nghĩa vụ, quyền của cha, mẹ trực tiếp nuôi con đối với người không trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn được thực hiện theo quy định tại các Điều 81, Điều 82, Điều 83 và Điều 84 của Luật hôn nhân và gia đình.

Về tài sản và nợ chung: Chị Y và anh D không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không xét.

[3]. Về án phí: Căn cứ khoản 4 Điều 147 của Bộ luật Tố tụng dân sự; khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Chị Y phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm là 300.000 đồng.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào: Khoản 1 Điều 28, khoản 1 Điều 35, khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 147, khoản 1 Điều 227, Điều 266, Điều 271 và Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự;

Khoản 1 Điều 56, Điều 57, Điều 81, Điều 82, Điều 83 và Điều 84 của Luật hôn nhân và gia đình;

Khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1. Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu ly hôn của chị Trần Thị Như Y đối với anh Trần Văn D.

2. Về con: Anh Trần Văn D được quyền tiếp tục chăm sóc, nuôi dưỡng cháu Trần Thảo L1, sinh ngày 18/4/2017 và cháu Trần Thảo L2, sinh ngày 27/9/2018, chị Trần Thị Như Y không phải cấp dưỡng nuôi con do anh D không yêu cầu. Trừ trường hợp có yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con và cấp dưỡng nuôi con theo quy định của pháp luật.

Chị Y được quyền đến thăm nom, chăm sóc và giáo dục con chung không ai được quyền cản trở.

3. Về án phí: Chị Trần Thị Như Y phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) nhưng được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0002144 ngày 08/3/2021 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện GR, tỉnh Kiên Giang, chị Y đã nộp đủ án phí sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo: Chị Trần Thị Như Y có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn luật định là 15 ngày, kể từ ngày tuyên án là ngày 24/11/2021; anh Trần Văn D có quyền kháng cáo trong thời hạn luật định 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được tống đạt hợp lệ theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

256
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp hôn nhân và gia đình số 102/2021/HNGĐ-ST

Số hiệu:102/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Giồng Riềng - Kiên Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành:24/11/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về