Bản án về tranh chấp hôn nhân và gia đình số 08/2021/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN LẠNG GIANG, TỈNH BẮC GIANG

BẢN ÁN 08/2021/HNGĐ-ST NGÀY 21/01/2022 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH

Ngày 21 tháng 01 năm 2022, Tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện L tiến hành xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 347/2021/TLST- HNGĐ ngày 25 tháng 11 năm 2021 về việc “Tranh chấp hôn nhân và gia đình” theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 07/2022/QĐXXST- HNGĐ ngày 10 tháng 01 năm 2022 giữa các đương sự:

* Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị H, sinh năm 1983 - Có mặt Địa chỉ: Thôn A, xã X, huyện L, tỉnh B.

* Bị đơn: Anh Nguyễn Văn X, sinh năm 1981 - Có mặt Địa chỉ: Thôn C, xã X, huyện L, tỉnh B.

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Nguyên đơn chị Nguyễn Thị H tại đơn khởi kiện, bản tự khai và các lời khai tiếp theo trình bày:

- Về quan hệ hôn nhân: Chị và anh Nguyễn Văn X được tự do tìm hiểu và tự nguyện đăng ký kết hôn tại UBND xã X, huyện L vào ngày 10/12/2002. Anh chị được gia đình hai bên tổ chức lễ cưới theo phong tục tập quán địa phương. Sau khi kết hôn, chị về nhà anh Xuyến làm dâu, chung sống cùng gia đình anh Xuyến. Sau khi kết hôn một thời gian thì vợ chồng anh chị ra ở riêng. Thời gian đầu cuộc sống vợ chồng hạnh phúc. Tuy nhiên từ năm 2018 giữa chị và anh Xuyến nảy sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn là do chị ốm đau, bệnh tật, anh Xuyến lấy cớ sinh sự cãi nhau. Chị xin phép anh Xuyến cho chị về bên ngoại để chữa bệnh nhưng anh Xuyến lại lấy cớ để cãi nhau. Ngày 30/4, 1/5 năm 2019 chị về sinh sống cùng anh Xuyến thì được khoảng 3 tháng giữa chị và anh Xuyến xảy ra xích mích, anh Xuyến đuổi chị và có lên nhà bố mẹ đẻ của chị nói chuyện là trả về với ông bà. Nhiều khi anh Xuyến không gọi điện thoại được cho chị thì ghen tuông. Anh Xuyến cấm các con không được lên nhà ngoại thăm mẹ và cấm các con không được nhận đồ mẹ mua cho. Chị và anh Xuyến đã ly thân từ tháng 7 năm 2019 cho đến nay.Chị xác định tình cảm vợ chồng không còn, đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn anh Xuyến.

- Về con chung và cấp dưỡng nuôi con: Giữa chị và anh Xuyến có 02 con chung là cháu Nguyễn Văn Thông, sinh ngày 27/9/2003 và cháu Nguyễn Thanh Tùng, sinh ngày 08/12/2007. Hiện nay cháu Thông đã trưởng thành. Khi ly hôn chị đề nghị Tòa án giao cho chị được trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục cháu Nguyễn Thanh Tùng. Cháu Thông đã trưởng thành và ở cùng anh Xuyến nên chị không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về cấp dưỡng nuôi con: Chị yêu cầu anh Xuyến cấp dưỡng nuôi cháu Tùng với mức 1.000.000đ/tháng cho đến khi cháu Tùng đủ 18 tuổi.

- Về tài sản chung, công nợ chung: Chị không yêu cầu Tòa án giải quyết. Do bận công việc nên chị làm đơn đề nghị Tòa án không tiến hành hòa giải và xin vắng mặt tại Tòa án.

* Ngày 22/12/2021, Tòa án tiến hành làm việc với anh Nguyễn Văn X - bị đơn trong vụ án, anh Xuyến trình bày như sau: Anh xác nhận về thời gian, điều kiện kết hôn,tình trạng mâu thuẫn giữa hai vợ chồng như chị Hân trình bày là đúng. Tuy nhiên, về nguyên nhân mâu thuẫn anh cho rằng, nguyên nhân là do chị Hân nhập nhằng trai gái nên anh đuổi chị Hân ra khỏi nhà. Nay tình cảm vợ chồng không còn nên anh nhất trí đề nghị Tòa án giải quyết cho anh và chị Hân ly hôn.

Về con chung: Vợ chồng anh có có 02 con chung là cháu Nguyễn Văn Thông, sinh ngày 27/9/2003 và cháu Nguyễn Thanh Tùng, sinh ngày 08/12/2007. Hiện nay cháu Thông đã trưởng thành. Anh không đồng ý về việc chị Hân đề nghị Tòa án giao cháu Tùng cho chị Hân nuôi dưỡng và không đồng ý cấp dưỡng nuôi con với lý do: Bản thân anh là người chăm lo cho các con mấy năm nay. Các con anh đều đang ở cùng anh. Anh đề nghị Tòa án giao cháu Tùng cho anh nuôi dưỡng và anh không yêu cầu chị Hân phải cấp dưỡng nuôi con. Hiện nay anh làm lao động từ do, thu nhập khoảng 7 đến 8 triệu đồng/tháng.

Về tài sản chung, công nợ chung: Anh không yêu cầu Tòa án giải quyết.

* Tại biên bản xác minh của Tòa án với chính quyền địa phương ngày 14/12/2021 cho biết: Địa phương không nắm được mâu thuẫn vợ chồng giữa chị Hân và anh Xuyến. Tuy nhiên chị Hân và anh Xuyến đã ly thân khoảng 2 năm nay. Các con của chị Hân và anh Xuyến đang ở cùng anh Xuyến. Địa phương đề nghị Tòa án xem xét giải quyết theo quy định pháp luật.

* Tại biên bản xác minh của Tòa án với bà Nguyễn Thị Tư, sinh năm 1940 là mẹ đẻ của anh Nguyễn Văn X cho biết: Anh Xuyến và chị Hân có đăng ký kết hôn hợp pháp và được gia đình hai bên tổ chức lễ cưới theo phong tục tập quán của địa phương. Sau khi cưới thì chị Hân về sống cùng gia đình bà một thời gian sau đó được gia đình cho vợ chồng ra ở riêng. Quá trình chung sống, giữa chị Hân và anh Xuyến có xảy ra mâu thuẫn, nguyên nhân là do chị Hân ốm đau, chữa trị tốn kém và sau này anh Xuyến bắt được chị Hân đi uống nước với người khác giới nên vợ chồng xảy ra xô xát cãi nhau. Sau đó anh Xuyến và chị Hân ly thân, chị Hân về bên nhà bố mẹ đẻ sinh sống. Nay chị Hân khởi kiện xin ly hôn thì đây là việc riêng của anh chị. Tuy nhiên, nếu giải quyết ly hôn thì bà đề nghị Tòa án giao cho anh Xuyến được nuôi dưỡng cả 02 con chung là cháu Thông và cháu Tùng vì hiện nay các cháu đang ở cùng anh Xuyến.

* Tại biên bản ghi lời khai ngày 27/12/2021, cháu Nguyễn Thanh Tùng trình bày: Quá trình giải quyết vụ án, bố cháu có bảo cháu viết 01 đơn trình bày gửi đến VKSND huyện L về việc có nguyện vọng được ở cùng bố. Tuy nhiên nay bố mẹ cháu ly hôn cháu có nguyện vọng được ở cùng mẹ. Anh Thông đã ở cùng với bố rồi nay cháu muốn bố mẹ cháu đều có con ở bên cạnh, anh Thông đã ở cùng bố cháu, cháu có nguyện vọng được ở cùng mẹ.

Tòa án đã tiến hành hòa giải vụ án nhưng chị Hân có đơn đề nghị Tòa án không tiến hành hòa giải và xin vắng mặt tại Tòa án nên Tòa án không tiến hành hòa giải được vụ án.

* Tại phiên tòa:

Chị Hân có mặt tại phiên tòa, tại phần thủ tục bắt đầu phiên tòa, chị Hân trình bày xin rút yêu cầu về cấp dưỡng nuôi con, nay chị không yêu cầu anh Xuyến phải cấp dưỡng nuôi con. Chị giữ nguyên yêu cầu khởi kiện về việc xin ly hôn anh Xuyến và đề nghị Tòa án giao cho chị được trực tiếp nuôi cháu Nguyễn Thanh Tùng. Chị không yêu cầu Tòa án giải quyết về tài sản chung, công nợ chung.

Anh Xuyến có mặt tại phiên tòa, anh nhất trí thuận tình ly hôn nhưng anh không đồng ý để chị Hân nuôi cháu Nguyễn Thanh Tùng vì lý do hiện nay các con đang ở cùng anh, anh đủ điều kiện kinh tế để nuôi con và muốn chị Hân không phải vướng bận chuyện con cái, anh đề nghị Tòa án giao cho anh được nuôi dưỡng cháu Tùng, anh không yêu cầu chị Hân phải cấp dưỡng nuôi con chung.

Chị Hân không đồng ý với ý kiến của anh Xuyến, chị hiện đang làm công ty, có thu nhập đảm bảo để nuôi con, chị cũng là mẹ và có quyền được nuôi dưỡng con.

* Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện L phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử và các đương sự, phát biểu ý kiến về việc giải quyết vụ án:

- Quá trình thụ lý, giải quyết và xét xử vụ án, Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa tuân thủ theo đúng các quy định pháp luật tố tụng dân sự; nguyên đơn, bị đơn chấp hành đúng các quy định của pháp luật tố tụng dân sự.

- Về việc giải quyết vụ án:

Xét chị Hân và anh Xuyến đều thống nhất thuận tình ly hôn nên đề nghị áp dụng Điều 55 của Luật Hôn nhân và gia đình, công nhận sự thuận tình ly hôn của hai bên.

Về con chung đề nghị áp dụng Điều 81, 82, 83 của Luật Hôn nhân gia đình giao cho chị Hân nuôi dưỡng, chăm sóc cháu Tùng. Cháu Thông đã trưởng thành, các đương sự không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không đặt ra xem xét.

Chị Hân không yêu cầu giải quyết về cấp dưỡng nuôi con, về tài sản chung, công nợ chung nên không đặt ra xem xét.

Ngoài ra kiểm sát viên đề nghị HĐXX xem xét về án phí, quyền kháng cáo của đương sự.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, sau khi thẩm tra các chứng cứ tại phiên toà; Căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà, Hội đồng xét xử xét thấy:

[1]. Đơn khởi kiện của chị Nguyễn Thị H cùng các tài liệu nộp theo đơn là hợp lệ, đảm bảo đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự về hình thức, nội dung đơn khởi kiện. Đây là tranh chấp hôn nhân gia đình cụ thể là ly hôn, tranh chấp về nuôi con theo khoản 1 Điều 28 Bộ luật tố tụng dân sự, bị đơn anh Nguyễn Văn X hiện nay đang cư trú tại Thôn C, xã X, huyện L, tỉnh B nên vụ án thuộc thẩm quyền của Tòa án nhân dân huyện L.

[2].Về thủ tục tố tụng: Tòa án nhân dân huyện L đã thụ lý, giải quyết vụ án theo đúng trình tự thủ tục tố tụng dân sự pháp luật đã quy định. Nguyên đơn, bị đơn đã chấp hành đúng quy định của pháp luật về quyền và nghĩa vụ, đều có mặt tại phiên tòa.

[3]. Về quan hệ hôn nhân:

Lời khai của chị Hân và anh Xuyến đều xác định vợ chồng kết hôn trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại UBND xã X, huyện L, tỉnh B ngày 10/12/2002 theo giấy chứng nhận kết hôn do UBND xã X cấp, do đó quan hệ hôn nhân của anh chị là hợp pháp.

Quá trình chung sống của vợ chồng thì thấy: Từ đơn khởi kiện cho đến bản tự khai và các lời khai tiếp theo của nguyên đơn xác định giữa chị Hân và anh Xuyến không còn tình cảm với nhau. Tại phiên tòa, chị Hân giữ nguyên quan điểm xin ly hôn, anh Xuyến đồng ý với yêu cầu xin ly hôn của chị Hân. Hội đồng xét xử xét thấy: Tại phiên tòa nhưng chị Hân và anh Xuyến đều thống nhất yêu cầu giải quyết ly hôn, do đó Tòa án căn cứ Điều 55 của Luật hôn nhân và gia đình công nhận sự thuận tình ly hôn của chị Hân, anh Xuyến.

[4]. Về con chung: Chị Hân, anh Xuyến xác định vợ chồng có 02 con chung là Nguyễn Văn Thông, sinh ngày 27/9/2003 và cháu Nguyễn Thanh Tùng, sinh ngày 08/12/2007. Cháu Thông đã trưởng thành, các đương sự không yêu cầu nên Tòa án không xem xét. Cả chị Hân và anh Xuyến đều có nguyện vọng xin được nuôi cháu Tùng. HĐXX xét thấy là nguyện vọng chính đáng. Xét về điều kiện thực tế, chị Hân hiện đang làm công nhân có thu nhập bình quân khoảng 6.000.000 đến 7.000.000 đồng/tháng, anh Xuyến trình bày hiện hiện anh đang làm lao động tự do, thu nhập bình quân khoảng 20.000.000 đồng/tháng nhưng anh không có tài liệu chứng minh, Hội đồng xét xử thấy chị Hân và anh Xuyến đều có đủ điều kiện về kinh tế để nuôi dưỡng con chung nhưng xét thấy, cháu Thông trưởng thành và hiện đang ở cùng anh Xuyến; cháu Tùng đang ở cùng anh Xuyến nhưng cháu có nguyện vọng được ở cùng với chị Hân do vậy cần giao cháu Tùng cho chị Hân trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục là phù hợp quy định tại khoản 2 Điều 81 Luật hôn nhân và gia đình. Nếu sau này chị Hân là người trực tiếp nuôi con không còn đủ điều kiện trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì anh Xuyến có quyền xin thay đổi người trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn theo Điều 84 Luật hôn nhân và gia đình.

Về cấp dưỡng nuôi con chung: Trong quá trình giải quyết vụ án chị Hân yêu cầu anh Xuyến phải cấp dưỡng nuôi con nhưng tại phiên tòa, chị Hân đã rút yêu cầu này. Các đương sự không yêu cầu Tòa án giải quyết về cấp dưỡng nuôi con nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

Cháu Nguyễn Văn Thông đã trưởng thành, các đương sự không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.

[5]. Về tài sản chung, công nợ chung: Các đương sự không yêu cầu Tòa án giải quyết nên HĐXX không đặt ra xem xét.

[6]. Về án phí: Chị Hân phải chịu án phí dân sự ly hôn sơ thẩm theo quy định tại khoản 4 Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự, điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Nguyên đơn, bị đơn có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng Điều 51, Điều 55, Điều 57, Điều 81, Điều 82, Điều 83 của Luật hôn nhân và gia đình; Điều 28, Điều 35, Điều 39, Điều 147, Điều 235, Điều 271 và Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự; khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, xử:

1. Về quan hệ hôn nhân: Công nhận sự thuận tình ly hôn giữa chị Nguyễn Thị H và anh Nguyễn Văn X.

2. Về con chung: Giao cháu Nguyễn Thanh Tùng, sinh ngày 08/12/2007 cho chị Nguyễn Thị H trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục.

Anh Xuyến, chị Hân có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung sau khi ly hôn, không ai được cản trở anh, chị thực hiện quyền này.

3. Về án phí:

- Chị Nguyễn Thị H phải chịu 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm nhưng được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí chị Hân đã nộp theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0012559 ngày 25/11/2021 tại Chi cục thi hành án dân sự huyện L. Xác nhận chị Hân đã nộp xong tiền án phí dân sự sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo: Chị Hân, anh Xuyến có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6,7, 7a và 9 Luật thi hành án dân sự. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Án xử công khai sơ thẩm./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

201
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp hôn nhân và gia đình số 08/2021/HNGĐ-ST

Số hiệu:08/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Lạng Giang - Bắc Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 21/01/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về