TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN SƠN DƯƠNG, TỈNH TUYÊN QUANG
BẢN ÁN 07/2024/HNGĐ-ST NGÀY 18/01/2024 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH
Ngày 18/01/2024, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện S mở phiên toà xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 395/2023/TLST-HNGĐ, ngày 10 tháng 10 năm 2023 về việc Ly hôn, tranh chấp về nuôi con khi ly hôn, theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 118/2023/QĐST-HNGĐ, ngày 21/12/2023; quyết định hoãn phiên tòa số 02/2024/QĐST-HNGĐ ngày 04/01/2024 giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Chị Trần Thị V, sinh năm 1991.
Địa chỉ: Thôn B, xã S, huyện S, tỉnh T.
- Bị đơn: Anh Trương Văn N, sinh năm 1988.
Địa chỉ: Thôn B, xã S, huyện S, tỉnh T.
(Chị V có đơn xin xét xử vắng mặt, anh N vắng mặt không có lý do)
NỘI DUNG VỤ ÁN
Trong đơn khởi kiện và các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án nguyên đơn chị Trần Thị V trình bày:
Về quan hệ hôn nhân: Chị và anh Trương Văn N kết hôn năm 2015 và đăng ký kết hôn tại UBND xã S, huyện S, tỉnh T; trước khi kết hôn được tự do tìm hiểu và tự nguyện đi đến hôn nhân, được gia đình hai bên tổ chức cưới hỏi theo phong tục địa phương. Sau ngày cưới anh chị sinh sống tại thôn B, xã S, huyện S, tỉnh T. Cuộc sống chung của vợ chồng hạnh phúc, đến giữa năm 2022 thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân là do vợ chồng không hòa hợp, bất đồng quan điểm sống, thường xuyên xảy ra cãi vã, gia đình hai bên đã hòa giải nhưng không thành. Anh chị đã sống ly thân từ đó đến nay, không còn quan hệ về tình cảm và kinh tế với nhau nữa. Nay chị xác định không còn tình cảm gì với anh Trương Văn N, mâu thuẫn không hòa giải được; đề nghị Tòa án nhân dân huyện S giải quyết cho chị được ly hôn với anh Trương Văn N.
Về con chung: Vợ chồng anh chị có một con chung tên là Trương Tiến Đ, sinh ngày 20/8/2016. Khi ly hôn, chị V đề nghị được trực tiếp nuôi dưỡng cháu Trương Tiến Đ, chị không đề nghị anh N cấp dưỡng nuôi con.
Về tài sản, đất đai, công nợ chung: Chị V xác định không có, không đề nghị Toà án giải quyết.
Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã thực hiện đầy đủ thủ tục tố tụng theo quy định của pháp luật và tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng nhưng anh Trương Văn N trốn tránh, không thực hiện các quyền và nghĩa vụ tố tụng của mình, không có văn bản trình bày ý kiến. Do đó Tòa án không lấy được lời khai và không hòa giải được.
Tại phiên toà đại diện Viện Kiểm sát nhân dân huyện S phát biểu quan điểm: Toà án đã thụ lý, giải quyết vụ án ly hôn sơ thẩm về việc “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con khi ly hôn” là đúng thẩm quyền, đúng nội dung tranh chấp. Quá trình thụ lý, giải quyết vụ án và tại phiên tòa, Thẩm phán và Hội đồng xét xử (HĐXX) đã thực hiện đúng các quy định của pháp luật tố tụng dân sự; quyền và nghĩa vụ của đương sự được đảm bảo. Yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là có căn cứ chấp nhận. Đề nghị HĐXX áp dụng các Điều 28, 39, 147, 228, 235, 238, 266, 271, 273 Bộ luật tố tụng dân sự; Điều 56, 58, 81, 82, 83 Luật hôn nhân và gia đình; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Trần Thị V, xử cho chị Trần Thị V được ly hôn với anh Trương Văn N. Về con chung giao cháu Trương Tiến Đ, sinh ngày 20/8/2016 cho chị Trần Thị V trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục. Anh Trương Văn N không phải cấp dưỡng nuôi con và được quyền đi lại thăm nom con chung không ai được cản trở. Về tài sản, đất đai, vay nợ chung: Trong quá trình giải quyết vụ án các đương sự không có tranh chấp nên không xem xét. Về án phí ly hôn sơ thẩm chị Trần Thị V phải chịu toàn bộ phần án phí, anh Trương Văn N không phải chịu án phí. Các đương sự được quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà, HĐXX nhận định:
[1] Về quan hệ pháp luật tranh chấp: Chị Trần Thị V và anh Trương Văn N kết hôn tự nguyện, có đăng ký kết hôn, vì vậy đây là quan hệ hôn nhân hợp pháp. Chị V khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn và giao nuôi con chung khi ly hôn, do vậy quan hệ pháp luật tranh chấp xác định là: Ly hôn, tranh chấp về nuôi con khi ly hôn theo quy định tại khoản 1, Điều 28 Bộ luật Tố tụng dân sự.
[2] Về thẩm quyền giải quyết của Tòa án: Anh Trương Văn N là bị đơn có đăng ký hộ khẩu thường trú tại thôn B, xã S, huyện S, tỉnh T.
Vì vậy, căn cứ khoản 1, Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án có thẩm quyền giải quyết vụ án là Tòa án nhân dân huyện S.
[3] Anh Trương Văn N đã được triệu tập hợp lệ lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt. Do đó, HĐXX căn cứ khoản 3 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự xét xử vắng mặt bị đơn.
[4] Về yêu cầu ly hôn của chị Trần Thị V, HĐXX nhận định: Căn cứ kết quả xác minh tại địa phương nơi cư trú của chị V và anh N xác định:
Chị V và anh N kết hôn vào năm 2015 và đăng ký kết hôn tại UBND xã S, huyện S, tỉnh T theo quy định của pháp luật. Sau khi kết hôn, anh chị làm ăn sinh sống tại thôn B, xã S, huyện S, tỉnh T. Thời gian chung sống vợ chồng anh chị ban đầu bình thường nhưng sau đó phát sinh mâu thuẫn; nguyên nhân thì địa phương không nắm được; hai anh chị đã sống ly thân. Hiện anh N đi làm ăn xa nhà, thi thoảng mới về thăm gia đình. Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án nhiều lần gửi thông báo và giấy triệu tập cho anh Trương Văn N, theo thân nhân của anh N thì gia đình đều nhận được và có thông báo cho anh N biết, anh N có ý kiến là nhất trí ly hôn nhưng do đi làm ăn xa nên không tới Tòa án làm việc được. Điều đó cho thấy anh N cũng không mong muốn hòa giải đoàn tụ.
Từ những căn cứ trên xác định, tình trạng hôn nhân giữa chị V và anh N đã thực sự trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Do đó, yêu cầu xin ly hôn của chị V là chính đáng và có căn cứ cần chấp nhận theo quy định tại khoản 1, Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình.
[5] Về con chung, HĐXX nhận định: Quá trình giải quyết ly hôn chị V đề nghị được trực tiếp trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục cháu Trương Tiến Đ, sinh ngày 20/8/2016. Bản thân cháu Đ cũng có nguyện vọng muốn được ở với mẹ khi bố mẹ ly hôn. Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã tiến hành xác minh tại địa phương thể hiện anh Trương Văn N hiện nay đi làm ăn xa nhà, chỉ thi thoảng mới về thăm gia đình. Như vậy, cần giao cháu Trương Tiến Đ, sinh ngày 20/8/2016 cho chị Trần Thị V trực tiếp trong nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục là phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh thực tế. Do đó, căn cứ vào các Điều 81, 82, 83 giao cháu Trương Tiến Đ, sinh ngày 20/8/2016 cho chị Trần Thị V trực tiếp trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục. Anh Trương Văn N không phải cấp dưỡng nuôi con và được quyền đi lại thăm nom con chung không ai được cản trở.
[6] Về tài sản, đất đai, vay nợ chung: Chị V xác định không có, không đề nghị Tòa án giải quyết nên HĐXX không xem xét.
[7] Về án phí: Chị Trần Thị V phải nộp toàn bộ án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định của pháp luật. Anh Trương Văn N không phải nộp án phí.
[8] Các đương sự có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào các Điều 28, 39, 147, 228, 235, 238, 266, 271, 273 Bộ luật Tố tụng dân sự.
Áp dụng khoản 1 Điều 56, các Điều 58, 81, 82, 83 của Luật Hôn nhân và gia đình; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về án phí và lệ phí Tòa án,
Xử: Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của chị Trần Thị V về việc Ly hôn, tranh chấp về nuôi con khi ly hôn đối với anh Trương Văn N.
1. Về quan hệ hôn nhân: Chị Trần Thị V được ly hôn với anh Trương Văn N.
2. Về con chung: Giao cháu Trương Tiến Đ, sinh ngày 20/8/2016 cho chị Trần Thị V trực tiếp trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục. Anh Trương Văn N không phải cấp dưỡng nuôi con và được quyền đi lại thăm nom con chung không ai được cản trở.
3. Về án phí: Chị Trần Thị V phải nộp 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) án phí ly hôn sơ thẩm nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) theo giấy thu tiền 000000708114 ngày 10 tháng 10 năm 2023 ký bởi Công ty cổ phần thanh toán quốc gia và biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0002978 ngày 11 tháng 10 năm 2023 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện S, tỉnh T. Anh Trương Văn N không phải nộp án phí.
4. Về quyền kháng cáo: Các đương vắng mặt được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.
Bản án về tranh chấp hôn nhân và gia đình số 07/2024/HNGĐ-ST
Số hiệu: | 07/2024/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Sơn Dương - Tuyên Quang |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 18/01/2024 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về