Bản án về tranh chấp hôn nhân và gia đình số 06/2024/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TƯƠNG DƯƠNG - TỈNH NGHỆ AN

BẢN ÁN 06/2024/HNGĐ-ST NGÀY 31/01/2024 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH

Ngày 31 tháng 01 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Tương Dương, tỉnh Nghệ An đưa ra xét xử sơ thẩm công khai vụ án Hôn nhân và gia đình thụ lý số: 143/2023/TLST- HNGĐ ngày 17 tháng 11 năm 2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 58/2024/QĐXX-ST ngày 27 tháng 12 năm 2023 và Quyết định Hoãn phiên tòa số 02/2024/QĐST-HNGĐ ngày 15 tháng 01 năm 2024 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Lương Thị H, sinh năm 1996 (Có đơn xét xử vắng mặt) Trú tại: Bản V, xã T, huyện Tương Dương, tỉnh Nghệ An.

2. Bị đơn: Anh Vi Văn K. Sinh năm 1991 (Vắng mặt tại phiên tòa lần thứ hai) Địa chỉ: Bản V, xã T, huyện Tương Dương, tỉnh Nghệ An.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo nội dung đơn khởi kiện đề ngày 09/10/2023 và các lời khai tiếp theo trong quá trình giải quyết vụ án chị Lương Thị H trình bày:

Tình cảm: Chị Lương Thị H và anh Vi Văn K tìm hiểu nhau được một thời gian thì được hai bên gia đình nội ngoại tổ chức đám cưới theo phong tục tập quán của địa phương vào năm 2014, nhưng do thiếu hiểu biết về pháp luật nên vợ chồng không được đi đăng ký kết hôn mà chung sống với nhau như vợ chồng từ năm 2014. Sau khi chung sống với nhau được vài năm thì chị H và anh K phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân là do anh K nghiện ma túy, bản thân và gia đình nhắc nhở nhiều lần nhưng anh K vẫn không cai nghiện được, anh K đã đi cai nghiện vào tháng 6/2020 đến tháng 12/2021 anh K cai nghiện xong trở về địa phương, chị H và K không chung sống đã lâu nên tình cảm không còn, chị H có nguyện vọng đề nghị Tòa án không công nhận chị H và anh K là vợ chồng.

- Về con chung: Chị H và anh K có 01 con chung cháu Vi Hương Dược, sinh ngày 29/5/2014, hiện cháu đang sống với ông Vi Thái Nguyên, bà Lương Thị Trọng tại bản V, xã T, huyện Tương Dương, tỉnh Nghệ An. Từ khi cháu còn nhỏ thì chị H đã đi làm ăn xa, bản thân chị H và anh K nhờ ông bà nội chăm sóc, nuôi dưỡng cháu. Từ khi vợ chồng sống ly thân nhau thì cháu vẫn sống ở ông bà nội và anh K, anh K hiện nay đi làm ăn xa để có tiền nuôi dưỡng cháu Dược, bản thân anh K rất có trách nhiệm với cháu Dược, chị H chỉ hỗ trợ một phần kinh tế, còn chủ yếu cháu Dược là do anh K chăm sóc, nuôi dưỡng. Cháu Dược cũng có nguyện vọng ở với anh K. Bản thân chị H không muốn đảo lộn cuộc sống của cháu, tôn trọng ý kiến của cháu Dược, anh K cũng có nguyện vọng được nuôi con. Nên nếu ly hôn chị H có nguyện vọng giao cháu Vi Hương Dược cho anh K chăm sóc, nuôi dưỡng cho đến khi cháu Dược trưởng thành, về cấp dưỡng: Chị H và anh K tự thỏa thuận không yêu cầu Tòa án giải quyết.

- Về tài sản chung, nợ chung: Tôi không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Sau khi thụ lý vụ án Tòa án đã nhiều lần tống đạt giấy triệu tập hợp lệ đối với bị đơn anh Vi Văn K nhưng anh K vẫn vắng mặt không có lý do.

Tại các biên bản lấy lời khai thì ông Vi Thái Nguyên bố đẻ của anh Vi Văn K trình bày: Từ khi anh K và chị H sống ly thân với nhau từ năm 2019 thì cháu Vi Hương Dược, sinh năm 2015 do ông và anh K chăm sóc nuôi dưỡng. Do hoàn cảnh gia đình khó khăn nên anh K trao đổi với ông Nguyên xin đi làm ăn xa để có tiền phụ giúp ông nuôi cháu Dược, anh K hiện nay đã cai nghiện được ma túy. Ông Nguyên đồng ý cho anh K đi làm ăn xa, hàng tháng anh K gửi tiền cho ông trang trải trong gia đình và nuôi cháu Dược ăn học. Hiện nay cháu Dược đang học lớp 4, cháu rất ngoan ngoãn, vâng lời thầy cô giáo và ông bà. Ông Nguyên cũng hỏi ý kiến của cháu Dược thì cháu có nguyện vọng ở với anh K. Anh K hiện nay đi làm ăn ở tỉnh Thái Nguyên để kiếm nuôi con, còn địa chỉ cụ thể thì anh K không báo lại với ông nhưng ông thường xuyên liên lạc với anh K qua điện thoại, có việc cần thì anh K mới về nhà. Sau khi chị H thông báo nộp đơn ở tòa án thì ông hỏi ý kiến anh K, anh cũng trình bày như sau: Anh đồng ý ly hôn với chị H, nguyện vọng nuôi cháu Vi Hương Dược, sinh năm 2014, cấp dưỡng thì anh K không yêu cầu cấp dưỡng tiền nuôi con, tài sản chung, nợ chung không yêu cầu tòa án giải quyết. Sau khi nhận được các văn bản của Tòa án gửi cho anh K thì ông Nguyên đã thông báo cho anh K biết tất cả nội dung trên các giấy tờ mà Tòa án gửi cho anh K. Anh K đi làm ăn xa, không xin nghỉ thường xuyên được nên không thể tham gia theo giấy triệu tập, thông báo của Tòa án được, đề nghị Tòa án huyện Tương Dương giải quyết và xét xử vắng mặt anh K.

Kết quả xác minh tại địa phương: Chị Lương Thị H và anh Vi Văn K có hộ khẩu thường trú tại V, xã T, huyện Tương Dương, tỉnh Nghệ An. Quá trình kiểm tra trên hệ thống dữ liệu quốc gia và hồ sơ lưu trữ đăng ký kết hôn tại ủy ban nhân dân xã T thì không có thông tin đăng ký kết hôn của chị Lương Thị H và anh Vi Văn K. Anh K và chị H có một con chung tên cháu là Vi Hương Dược, sinh ngày 29/5/2014 hiện nay cháu sống cùng với anh K và ông bà nội là gia đình ông Vi Thái Nguyên tại bản V, xã T, huyện Tương Dương, tỉnh Nghệ An. Anh K đi làm ăn xa từ năm, thường xuyên liên lạc với gia đình và thỉnh thoảng về thăm nhà.

Kết quả xác minh tại trường tiểu học T, huyện Tương Dương, tỉnh Nghệ An: Cháu Vi Hương Dược hiện nay đang học lớp 4D trường tiểu học T, Tương Dương, Nghệ An và thầy Nguyễn Khắc Hoài làm chủ nhiệm lớp; Cháu Vi Hương Dược, sinh năm 2014 hiện cháu đang sống với anh Vi Văn K và ông bà nội Vi Thái Nguyên tại bản V, xã T, Tương Dương, Nghệ An; Trong quá trình họp tập tại trường thì các khoản tiền đóng góp cho nhà trường và lớp thì do ông Vi Thái Nguyên đóng cho cháu; Cháu Vi Hương Dược là học sinh xuất sắc trong lớp, tính tình ngoan ngoãn, lễ phép với thầy cô giáo, hòa đồng với bạn bè trong lớp.

Biên bản lấy lời khai ngày 24/11/2023 cháu Vi Hương Dược trình bày: Cháu Vi Hương Dược có nguyện vọng ở với anh Vi Văn K.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Tương Dương, tỉnh Nghệ An tham gia phiên toà phát biểu ý kiến:

Thẩm phán, Thư ký và Hội đồng xét xử đã chấp hành đúng các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.

Đối với nguyên đơn: Đã chấp hành đúng các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.

Quan điểm giải quyết nội dung vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu nguyên đơn Chị Lương Thị H cụ thể như sau: Quan hệ hôn nhân không công nhận quan hệ vợ chồng giữa chị Lương Thị H và anh Vi Văn K; Con Chung: Giao cháu Vi Hương Dược, sinh ngày 29/5/2014 cho anh K nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục cho đến khi cháu trưởng thành, tạm hoãn nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung đối với chị H; tài sản chung, nợ chung: Chị H không yêu cầu Tòa án giải quyết nên đề nghị Hội đồng xét xử không xem xét; Án phí:

Chị H chịu toàn bộ tiền án phí dân sự sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng và các lời khai của đương sự. Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Thủ tục tố tụng: Đây là tranh chấp về hôn nhân gia đình được quy định Điều 28 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án. Anh Vi Văn K có hộ khẩu thường trú tại bản V, xã T, huyện Tương Dương, tỉnh Nghệ An. Căn cứ Điều 35, 39 Bộ luật tố tụng dân sự, vụ án tranh chấp hôn nhân và gia đình giữa nguyên đơn chị Lương Thị H và anh Vi Văn K thuộc thẩm quyền của Tòa án nhân dân nhân dân huyện Tương Dương, tỉnh Nghệ An. Bị đơn được triệu tâp hợp lệ lần thứ hai không vì trường hợp bất khả kháng, trở ngại khách quan nhưng vẫn vắng mặt tại phiên tòa. Mặt khác trong giai đoạn chuẩn bị xét xử Tòa án đã triệu tập hợp lệ đối với bị đơn mặc dù bị đơn thỉnh thoảng có liên lạc với gia đình, do đó có căn cứ khẳng định bị đơn cố tình dấu địa chỉ, nguyên đơn có đơn xin xét xử vắng mặt nên căn cứ vào Điều 227, 228 Bộ luật tố tụng dân sự, Tòa án án xét xử vắng mặt nguyên đơn, bị đơn.

[2] Quan hệ hôn nhân: Chị H và anh K tìm hiểu, sau đó chung sống với nhau trên cơ sở tự nguyện từ năm 2014, chị H và anh K đều khai không được đi đăng ký kết hôn.

Tòa án cũng tiến hành xác minh tại ủy ban nhân dân xã T, huyện Tương Dương, tỉnh Nghệ An: Quá trình kiểm tra trên hệ thống dữ liệu quốc gia và hồ sơ lưu trữ đăng ký kết hôn tại ủy ban nhân dân xã T thì không có thông tin đăng ký kết hôn của chị Lương Thị H và anh Vi Văn K Vì vậy, chị H và anh K không đăng ký kết hôn là vi phạm Điều 9 Luật Hôn nhân và gia đình, đây là tranh chấp yêu cầu không công nhận vợ chồng.

[3] Nội dung:

- Căn cứ vào các tài liệu có tại hồ sơ vụ án, lời khai của các đương sự và tài liệu do tòa án thu thập được có đủ căn cứ xác định chị Lương Thị H và anh Vi Văn K chung sống với nhau như vợ chồng trên cơ sở tự nguyện từ năm 2014. Tại thời điểm chung sống chị H và anh K đều đã đủ tuổi kết hôn theo quy định của pháp luật. Chị H và anh K chung sống được vài năm thì phát sinh mâu thuẫn nguyên nhân là do anh K nghiện ma túy, vợ chồng đã sống ly thân nhau, không ai quan tâm đến ai về mọi mặt nên căn cứ Điều 9, Điều 14 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014, khoản 4 điều 3 Thông tư liên tịch số 01/2016/TTLT- TANDTC-VKSNDTC-BTP của Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao và Bộ tư pháp ngày 06/01/2016 về Hướng dẫn thi hành một số quy định Luật hôn nhân và gia đình thì không xác định chị Lương Thị H và anh Vi Văn K là vợ chồng, việc chị Lương Thị H yêu cầu Tòa án không công nhận quan hệ vợ chồng giữa chị và anh Vi Văn K là có căn cứ nên cần chấp nhận.

- Con chung: Chị H và anh K có 01 con chung là cháu Vi Hương Dược sinh ngày 29/5/2014, hiện cháu đang sống cùng anh K và ông bà nội tại bản V, xã T, huyện Tương Dương, tỉnh Nghệ An.

Qua quá trình xác minh tại địa phương, lời khai của ông Vi Thái Nguyên thì cháu Vi Hương Dược hiện do anh K chăm sóc, nuôi dưỡng, chị Lương Thị H đi làm ăn xa, thỉnh thoáng mới về thăm cháu. Đồng thời theo biên bản ghi lời khai ngày 17/11/2023, cháu Dược có nguyện vọng được sống cùng với anh K trong trường hợp chị H, anh K ly hôn. Do đó, để đảm bảo ổn định cuộc sống cho con chung, giúp con chung phát triển tốt về thể chất, tinh thần, Hội đồng xét xử căn cứ vào Điều 81 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014, giao cháu Vi Hương Dược sinh ngày 29/5/2014 cho anh Vi Văn K trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục cho đến khi cháu Vi Hương Dược đủ 18 tuổi, trưởng thành, về cấp dưỡng chị H và anh K tự thỏa thuận không yêu cầu tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét. Chị H được quyền đi lại thăm nom con chung không ai được cản trở chị H thực hiện quyền này.

[4] Tài sản chung, nợ chung: Chị Lương Thị H chưa yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[5] Án phí và quyền kháng cáo: Nguyên đơn phải chịu án phí dân sự sơ thẩm. Nguyên đơn, bị đơn có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, Điều 35, Điều 147, Điều 227, Điều 228, Điều 266, Điều 273 Bộ luật tố tụng Dân sự; Điều 9, Điều 14, Điều 15, Điều 53, Điều 81, Điều 82, Điều 83, Điều 84 Luật hôn nhân và gia đình; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội; khoản 4 điều 3 Thông tư liên tịch số 01/2016/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BTP của Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cáo và Bộ tư pháp.

Tuyên xử:

1. Tuyên bố không công nhận quan hệ vợ chồng giữa chị Lương Thị H và anh Vi Văn K.

2. Con chung:

+ Giao cháu Vi Hương Dược, sinh ngày 29/5/2014 cho anh Vi Văn K trực tiếp nuôi dưỡng cho đến khi trưởng thành, đủ 18 tuổi.

- Tạm hoãn việc cấp dưỡng nuôi con đối với chị H;

- Chị H có quyền thăm nom, chăm sóc con chung không ai được cản trở. Vì lợi ích mọi mặt của con, khi có lý do chính đáng có căn cứ theo quy định của pháp luật, theo yêu cầu của một bên hoặc các bên thì Tòa án có thể quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con và yêu cầu cấp dưỡng nuôi con.

3. Tài sản chung, nợ chung: Chị H không yêu cầu Tòa án giải quyết.

4. Án phí: Buộc chị Lương Thị H phải chịu 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) tiền án phí dân sự sơ thẩm nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí mà anh đã nộp theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0007268 ngày 17/11/2023 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Tương Dương, tỉnh Nghệ An.

5. Quyền kháng cáo: Nguyên đơn, bị đơn có quyền kháng cáo lên Tòa án nhân dân tỉnh Nghệ An trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết công khai tại nơi cư trú.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

12
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp hôn nhân và gia đình số 06/2024/HNGĐ-ST

Số hiệu:06/2024/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tương Dương - Nghệ An
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành:31/01/2024
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về