Bản án về tranh chấp hôn nhân và gia đình số 06/2024/HNGĐ-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN SƠN DƯƠNG, TỈNH TUYÊN QUANG

BẢN ÁN 06/2024/HNGĐ-ST NGÀY 18/01/2024 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH

Ngày 18/01/2024, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện S mở phiên toà xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 386/2023/TLST-HNGĐ, ngày 09 tháng 10 năm 2023 về việc Ly hôn, tranh chấp về nuôi con khi ly hôn, theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 117/2023/QĐST-HNGĐ, ngày 21/12/2023; quyết định hoãn phiên tòa số 01/2024/QĐST-HNGĐ ngày 04/01/2024 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Hoàng Thị N, sinh năm 1993.

Địa chỉ: Thôn D, xã Đ, huyện S, tỉnh T.

- Bị đơn: Anh Nguyễn Văn T, sinh năm 1990.

Địa chỉ: Thôn D, xã Đ, huyện S, tỉnh T.

(Chị N có đơn xin xét xử vắng mặt, anh T vắng mặt không có lý do)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện và các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án nguyên đơn chị Hoàng Thị N trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Chị và anh Nguyễn Văn T kết hôn năm 2011 và đăng ký kết hôn tại UBND xã Đ, huyện S, tỉnh T. Trước khi kết hôn được tự do tìm hiểu và tự nguyện đi đến hôn nhân, được gia đình hai bên tổ chức cưới hỏi theo phong tục địa phương. Sau ngày cưới anh chị sinh sống tại thôn D, xã Đ, huyện S, tỉnh T. Cuộc sống chung của vợ chồng hạnh phúc, đến năm 2018 thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân là do vợ chồng không hòa hợp, bất đồng quan điểm sống, thường xuyên xảy ra cãi vã xô xát, gia đình hai bên đã hòa giải nhưng không thành. Hai anh chị đã sống ly thân từ đó đến nay, không còn quan hệ về tình cảm và kinh tế với nhau nữa. Nay chị xác định không còn tình cảm gì với anh Nguyễn Văn T, mâu thuẫn không hòa giải được. Đề nghị Tòa án nhân dân huyện S giải quyết cho chị được ly hôn với anh Nguyễn Văn T.

Về con chung: Vợ chồng anh chị có hai con chung tên là Nguyễn Bảo Z, sinh ngày 16/8/2011 và Nguyễn Bảo X, sinh ngày 23/5/2017. Khi ly hôn, chị đề nghị được trực tiếp nuôi dưỡng cháu Nguyễn Bảo X, anh Nguyễn Văn T sẽ trực tiếp nuôi dưỡng cháu Nguyễn Bảo Z. Về cấp dưỡng nuôi con anh chị tự thỏa thuận không đề nghị Tòa án giải quyết.

Về tài sản, đất đai, công nợ chung: Chị N xác định không đề nghị Toà án giải quyết.

Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã thực hiện đầy đủ thủ tục tố tụng theo quy định của pháp luật và tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng nhưng anh Nguyễn Văn T trốn tránh, không thực hiện các quyền và nghĩa vụ tố tụng của mình, không có văn bản trình bày ý kiến. Do đó Tòa án không lấy được lời khai và không hòa giải được.

Tại phiên toà đại diện Viện Kiểm sát nhân dân huyện S phát biểu quan điểm: Toà án đã thụ lý, giải quyết vụ án ly hôn sơ thẩm về việc “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con khi ly hôn” là đúng thẩm quyền, đúng nội dung tranh chấp. Quá trình thụ lý, giải quyết vụ án và tại phiên tòa, Thẩm phán và Hội đồng xét xử (HĐXX) đã thực hiện đúng các quy định của pháp luật tố tụng dân sự; quyền và nghĩa vụ của đương sự được đảm bảo. Yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là có căn cứ chấp nhận. Đề nghị HĐXX áp dụng các Điều 28, 39, 147, 228, 235, 238, 266, 271, 273 Bộ luật tố tụng dân sự; Điều 56, 58, 81, 82, 83 Luật hôn nhân và gia đình; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Hoàng Thị N, xử cho chị Hoàng Thị N được ly hôn với anh Nguyễn Văn T. Về con chung giao cháu Nguyễn Bảo X, sinh ngày 23/5/2017 cho chị Hoàng Thị N trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục; giao cháu Nguyễn Bảo Z, sinh ngày 16/8/2011 cho anh Nguyễn Văn T trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục. Các bên không phải cấp dưỡng nuôi con và được quyền đi lại thăm nom con chung không ai được cản trở. Về tài sản, đất đai, vay nợ chung: Trong quá trình giải quyết vụ án các đương sự không có tranh chấp nên không xem xét. Về án phí ly hôn sơ thẩm chị Hoàng Thị N phải chịu toàn bộ phần án phí, anh Nguyễn Văn T không phải chịu án phí. Các đương sự được quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà, HĐXX nhận định:

[1] Về quan hệ pháp luật tranh chấp: Chị Hoàng Thị N và anh Nguyễn Văn T kết hôn tự nguyện, có đăng ký kết hôn, vì vậy đây là quan hệ hôn nhân hợp pháp. Chị N khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn và giao nuôi con chung khi ly hôn, do vậy quan hệ pháp luật tranh chấp xác định là: Ly hôn, tranh chấp về nuôi con khi ly hôn theo quy định tại khoản 1, Điều 28 Bộ luật Tố tụng dân sự.

[2] Về thẩm quyền giải quyết của Tòa án: Anh Nguyễn Văn T là bị đơn có đăng ký hộ khẩu thường trú tại thôn D, xã Đ, huyện S, tỉnh T. Vì vậy, căn cứ khoản 1, Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án có thẩm quyền giải quyết vụ án là Tòa án nhân dân huyện S.

[3] Anh Nguyễn Văn T đã được triệu tập hợp lệ lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt. Do đó, HĐXX căn cứ khoản 3 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự xét xử vắng mặt bị đơn.

[4] Về yêu cầu ly hôn của chị Hoàng Thị N, HĐXX nhận định: Căn cứ kết quả xác minh tại địa phương nơi cư trú của chị N và anh T xác định: Chị N và anh T kết hôn vào năm 2011. Sau khi kết hôn, anh chị làm ăn sinh sống tại thôn D, xã Đ, huyện S, tỉnh T. Thời gian chung sống vợ chồng anh chị ban đầu bình thường nhưng sau đó phát sinh mâu thuẫn; nguyên nhân dẫn đến mâu thuẫn thì địa phương không nắm được; đến khoảng tháng 6 năm 2023 thì chị N đưa cháu thứ hai về bên ngoại sinh sống, hai anh chị đã sống ly thân từ đó đến nay. Hiện anh T đi làm công ty; sáng đi làm, đến tôi vẫn về gia đình, về mức thu nhập của anh T thì địa phương không nắm được. Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án nhiều lần gửi thông báo và giấy triệu tập cho anh Nguyễn Văn T, theo thân nhân của anh T thì gia đình đều nhận được và có thông báo cho anh T biết, anh T có ý kiến đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật. Điều đó cho thấy anh T cũng không mong muốn hòa giải đoàn tụ.

Từ những căn cứ trên xác định, tình trạng hôn nhân giữa chị N và anh T đã thực sự trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Do đó, yêu cầu xin ly hôn của chị N là chính đáng và có căn cứ cần chấp nhận theo quy định tại khoản 1, Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình.

[5] Về con chung, HĐXX nhận định: Qúa trình giải quyết ly hôn chị N đề nghị được trực tiếp trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục cháu Nguyễn Bảo X, sinh ngày 23/5/2017; chị đề nghị giao cháu Nguyễn Bảo Z, sinh ngày 16/8/2011 cho anh Nguyễn Văn T trực tiếp trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục. Bản thân cháu Nam cũng thể hiện nguyện vọng mong muốn được ở cùng với bố. Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã tiến hành xác minh tại địa phương thể hiện anh Nguyễn Văn T hiện nay đi làm công ty, sáng đi làm tối vẫn về gia đình; theo thân nhân của anh T cho biết thì từ khi vợ chồng anh chị sống ly thân, cháu Nguyễn Bảo Z đã sinh sống cùng với bố là anh Nguyễn Văn T, cháu Nguyễn Bảo X theo mẹ về nhà ngoại sinh sống; bản thân anh T đi làm công ty tuy nhiên hàng ngày tối vẫn về sinh hoạt với gia đình; theo gia đình được biết thì thu nhập hàng tháng của anh T khoảng từ 7.000.000 đồng đến 8.000.000 đồng. Do đó, căn cứ vào các Điều 81, 82, 83 giao cháu Nguyễn Bảo X, sinh ngày 23/5/2017 cho chị Hoàng Thị N trực tiếp trong nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục; giao cháu Nguyễn Bảo Z, sinh ngày 16/8/2011 cho anh Nguyễn Văn T trực tiếp trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục là phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh thực tế. Các bên không phải cấp dưỡng nuôi con và được quyền đi lại thăm nom con chung không ai được cản trở.

[6] Về tài sản, đất đai, vay nợ chung: Chị N xác định không đề nghị Tòa án giải quyết nên HĐXX không xem xét.

[7] Về án phí: Chị Hoàng Thị N phải nộp toàn bộ án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định của pháp luật. Anh Nguyễn Văn T không phải nộp án phí.

[8] Các đương sự có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào các Điều 28, 39, 147, 228, 235, 238, 266, 271, 273 Bộ luật Tố tụng dân sự.

Áp dụng khoản 1 Điều 56, các Điều 58, 81, 82, 83 của Luật Hôn nhân và gia đình; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về án phí và lệ phí Tòa án,

Xử: Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của chị Hoàng Thị N về việc Ly hôn, tranh chấp về nuôi con khi ly hôn đối với anh Nguyễn Văn T.

1. Về quan hệ hôn nhân: Chị Hoàng Thị N được ly hôn với anh Nguyễn Văn T.

2. Về con chung: giao cháu Nguyễn Bảo X, sinh ngày 23/5/2017 cho chị Hoàng Thị N trực tiếp trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục; giao cháu Nguyễn Bảo Z, sinh ngày 16/8/2011 cho anh Nguyễn Văn T trực tiếp trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục. Các bên không phải cấp dưỡng nuôi con và được quyền đi lại thăm nom con chung không ai được cản trở.

3. Về án phí: Chị Hoàng Thị N phải nộp 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) án phí ly hôn sơ thẩm nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) theo giấy thu tiền 000000706114 ngày 09 tháng 10 năm 2023 ký bởi Công ty cổ phần thanh toán quốc gia và biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0002971 ngày 10 tháng 10 năm 2023 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện S, tỉnh T. Anh Nguyễn Văn T không phải nộp án phí.

4. Về quyền kháng cáo: Các đương vắng mặt được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

3
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp hôn nhân và gia đình số 06/2024/HNGĐ-ST

Số hiệu:06/2024/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Sơn Dương - Tuyên Quang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 18/01/2024
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về