TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ T, TỈNH AN GIANG
BẢN ÁN 50/2022/HNGĐ-ST NGÀY 23/08/2022 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH, LY HÔN
Ngày 23 tháng 8 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã T xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 250/2022/TLST-HNGĐ ngày 07 tháng 6 năm 2022 về “Tranh chấp hôn nhân và gia đình, ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 95/2022/QĐXXST-HN ngày 03 tháng 8 năm 2022, giữa các đương sự:
Nguyên đơn: Bà Lý Thị D, sinh năm 1965; Địa chỉ: Phường L, thị xã T, tỉnh An Giang, có mặt;
Bị đơn: Ông Nguyễn Thái S, sinh năm 1958; Địa chỉ: Phường L, thị xã T, tỉnh An Giang, vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo đơn khởi kiện, bản tự khai trong quá trình giải quyết vụ án nguyên đơn, bà Lý Thị D trình bày: Ông S và bà D chung sống như vợ chồng với nhau từ năm 2002, không đăng ký kết hôn. Quá trình chung sống hạnh phúc đến tháng 9 năm 2021 thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân mâu thuẫn do bất đồng quan điểm sống, tính tình không hoà hợp, thường xuyên cãi nhau. Nay nhận thấy mâu thuẫn ngày càng trầm trọng không thể hàn gắn sống chung với nhau được nên bà Lý Thị D yêu cầu ly hôn với ông Nguyễn Thái S.
Về con chung: Trong thời gian chung sống ông S và bà D có 01 (một) con chung tên Nguyễn Thái L, sinh ngày 03/6/2004. Hiện con chung đã trưởng thành và có khả năng lao động được.
Về tài sản chung và nợ chung: Không có, không yêu cầu Toà án giải quyết.
Quá trình tố tụng bị đơn, ông Nguyễn Thái S trình bày: Thống nhất về thời gian và điều kiện đi đến việc sống chung như vợ chồng như bà D trình bày. Thời gian đầu ông S và bà D chung sống hạnh phúc đến tháng 9 năm 2021 thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân mâu thuẫn do bất đồng quan điểm sống, tính tình không hoà hợp, thường xuyên cãi nhau. Nay nhận thấy mâu thuẫn ngày càng trầm trọng không thể hàn gắn với nhau được nên bà Lý Thị D yêu cầu ly hôn với ông Nguyễn Thái S. Ông S thống nhất ly hôn với bà D.
Về con chung: Trong thời gian chung sống ông S và bà D có 01 (một) con chung tên Nguyễn Thái L, sinh ngày 03/6/2004. Hiện con chung đã trưởng thành và có khả năng lao động được.
Về tài sản chung và nợ chung: Không có, không yêu cầu Toà án giải quyết.
Tòa án không tiến hành hòa giải về tình cảm do bà D và ông S không đăng ký kết hôn, không hòa giải về con chung do con chung đã trưởng thành;
Tại phiên tòa, bà Lý Thị D vẫn giữ nguyên ý kiến đã trình bày giai đoạn chuẩn bị xét xử, ông Nguyễn Thái S vắng mặt có đơn xin xét xử vắng mặt.
Hội đồng xét xử công bố kết quả xác nhận tình trạng hôn nhân của Uỷ ban nhân dân phường L về việc bà D và ông S không đăng ký kết hôn tại Uỷ ban nhân dân phường L, thị xã T, tỉnh An Giang.
- Phát biểu của Kiểm sát viên:
Việc tuân theo pháp luật trong thời gian chuẩn bị xét xử: Thẩm phán được phân công thụ lý giải quyết vụ án đã thực hiện đúng, đầy đủ quy định tại các Điều 28, Điều 35, Điều 39, Điều 68, Điều 97, Điều 191, Điều 195, Điều 196 và Điều 203 BLTTDS năm 2015.
Việc tuân theo pháp luật của Hội đồng xét xử, Thư ký tại phiên tòa: Hội đồng xét xử đã tuân theo đúng các quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự về việc xét xử sơ thẩm vụ án.
Việc tuân theo pháp luật của người tham gia tố tụng dân sự trong quá trình giải quyết vụ án, kể từ khi thụ lý cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án: Nguyên đơn bà Lý Thị D và bị đơn ông Nguyễn Thái S thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ tố tụng theo quy định của pháp luật Ý kiến về việc giải quyết vụ án:
Về quan hệ hôn nhân: Quan hệ giữa Bà Lý Thị D và ông Nguyễn Thái S xây dựng trên cơ sở tự tìm hiểu đi đến tổ chức lễ cưới và sống chung như vợ chồng vào năm 2002, không đăng ký kết hôn theo quy định pháp luật. Thời gian đầu chung sống hạnh phúc sau đó đến tháng 9 năm 2021 thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do không có tiếng nói chung, thường xuyên cãi nhau do bất đồng quan điểm sống, cuộc sống hôn nhân không hạnh phúc và đã không còn chung sống nhau từ năm 2021 cho đến nay.
Xét thấy, hôn nhân giữa bà Lý Thị D và ông Nguyễn Thái S được xác lập trên cơ sở tự nguyện, không đăng ký kết hôn theo quy định pháp luật nên không làm phát sinh quyền và nghĩa vụ của vợ chồng. Đồng thời bà D và ông S đều mong muốn được ly hôn. Do đó, có cơ sở không công nhận bà Lý Thị D và ông Nguyễn Thái S là vợ chồng.
Về quan hệ con chung: Trong thời gian chung sống ông S và bà D có 01 (một) con chung tên Nguyễn Thái L, sinh ngày 03/6/2004. Hiện con chung đã trưởng thành và có khả năng lao động được nên không xem xét giải quyết.
Về tài sản chung và nợ chung: Không yêu cầu nên không đặt ra để xem xét giải quyết.
Về án phí: Đương sự phải chịu án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm theo quy định.
Căn cứ Điều 14 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, đề nghị:
- Về quan hệ hôn nhân: Không công nhận quan hệ vợ chồng giữa bà Lý Thị D và ông Nguyễn Thái S.
- Về án phí: Đương sự phải chịu tiền án phí Hôn nhân gia đình sơ thẩm theo quy định.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:
*Về tố tụng:
- Về thẩm quyền: Bà Lý Thị D khởi kiện yêu cầu ly hôn với ông Nguyễn Thái S. Ông S có nơi cư trú: Phường L, thị xã T, tỉnh An Giang. Xét, đây là tranh chấp về hôn nhân và gia đình thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thị xã T theo quy định tại khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35 và khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự.
* Về nội dung:
[1] Về quan hệ hôn nhân:
Vào năm 2002, bà D và ông S tự tìm hiểu, yêu thương nhau, được gia đình hai bên đồng ý tổ chức lễ cưới, không đăng ký kết hôn theo quy định pháp luật. Thời gian đầu, bà D và ông S chung sống hạnh phúc đến tháng 9 năm 2021 thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do tính tình không hợp, thường xuyên xảy ra cự cãi, bất đồng quan điểm sống và không sống chung nhau từ năm 2021 cho đến nay. Tình cảm giữa bà D và ông S không còn nên bà D yêu cầu ly hôn với ông S, ông S đồng ý ly hôn với bà D.
Theo kết quả xác nhận tình trạng hôn nhân của Uỷ ban nhân dân phường L, thị xã T, tỉnh An Giang: Từ năm 2002 đến nay bà Lý Thị D và ông Nguyễn Thái S chưa có đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật.
Tại khoản 1 Điều 14 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định: “Nam, nữ có đủ điều kiện kết hôn theo quy định của Luật này chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn thì không làm phát sinh quyền và nghĩa vụ của vợ chồng”.
Tại khoản 2 Điều 53 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định: “Trong trường hợp không đăng ký kết hôn mà có yêu cầu ly hôn thì Tòa án thụ lý và tuyên bố không công nhận quan hệ vợ chồng theo quy định tại khoản 1 Điều 14 của Luật này”.
Bà D và ông S chung sống với nhau có đủ điều kiện kết hôn nhưng không đăng ký kết hôn. Xét, không công nhận bà Lý Thị D và ông Nguyễn Thái S là vợ chồng theo quy định tại khoản 1 Điều 14, khoản 2 Điều 53 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.
[2] Về con chung: Trong thời gian chung sống ông S và bà D có 01 (một) con chung tên Nguyễn Thái L, sinh ngày 03/6/2004. Hiện con chung đã trưởng thành và có khả năng lao động được, nên Hội đồng xét xử không đề cập đến.
[3] Về tài sản chung và nợ chung: Bà D và ông S đồng thống nhất khai, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hôi đồng xét xử không đề cập đến.
[4] Về án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm, bà D phải chịu 300.000 đồng án phí hôn nhân sơ thẩm nhưng đươc khấu trư vào số tiền 300.000 đồng tam ưng an phi đa nôp. Ông S không phải chịu án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm.
[5] Qua phát biểu ý kiến của Kiểm sát viên tại phiên tòa, Hội đồng xét xử xét thấy có căn cứ và phù hợp với quy định của pháp luật về quan điểm giải quyết vụ án.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào khoản 1 Điều 14, khoản 2 Điều 53 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014; Điều 147, khoản 2 Điều 227 và Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án;
Tuyên xử:
Về quan hệ hôn nhân: Không công nhận bà Lý Thị D và ông Nguyễn Thái S là vợ chồng.
Về án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm:
Bà Lý Thị D phải chịu 300.000 (ba trăm nghìn) đồng án phí hôn nhân sơ thẩm nhưng được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí hôn nhân sơ thẩm đã nộp là 300.000 (ba trăm nghìn) đồng theo biên lai số 0004930 ngày 02 tháng 6 năm 2022 của Chi cục Thi hành án dân sự thị xã T, tỉnh An Giang; Bà Lý Thị D đã nộp đủ án phí.
Ông Nguyễn Thái S không phải chịu án phí hôn nhân sơ thẩm.
Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, bà D có quyền kháng cáo để Tòa án nhân dân tỉnh An Giang xét xử phúc thẩm.
Riêng thời hạn kháng cáo của ông S là 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
Bản án về tranh chấp hôn nhân và gia đình, ly hôn số 50/2022/HNGĐ-ST
Số hiệu: | 50/2022/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thị xã Tân Châu - An Giang |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 23/08/2022 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về