TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ X, TỈNH AN GIANG
BẢN ÁN 37/2022/HNGĐ-ST NGÀY 05/08/2022 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH, LY HÔN
Ngày 05 tháng 8 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố X xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 89/2022/TLST- HNGĐ ngày 03 tháng 3 năm 2022 về “Tranh chấp về hôn nhân và gia đình, ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 70/2022/QĐXXST-HNGĐ ngày 30/6/2022, Quyết định hoãn phiên tòa số 63/2022/QĐST-DS ngày 19/7/2022, giữa:
- Nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị P, sinh năm 1982, Hộ khẩu thường trú: tổ 11, ấp CC, xã VT, thành phố X, tỉnh An Giang. Địa chỉ tạm trú: tổ 11, khóm SĐ, thị trấn NB, huyện TB, tỉnh An Giang; vắng mặt, có yêu cầu xét xử vắng mặt.
- Bị đơn: Ông Trần Văn L, sinh năm 1982, địa chỉ nơi cư trú: tổ 11, ấp CC, xã VT, thành phố X, tỉnh An Giang; vắng mặt không có lý do.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo đơn khởi kiện, bản tự khai và các lời khai cung cấp trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn bà Nguyễn Thị P trình bày:
Bà P và ông L quen biết nhau vào năm 2001, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã VT, thành phố X, tỉnh An Giang theo giấy kết hôn số 44/HT, quyển số 01/2006 ngày 13/7/2006. Quá trình chung sống, thời gian đầu vợ chồng chung sống hạnh phúc, nhưng đến năm 2018 thì vợ chồng phát sinh mâu thuẫn do ông L có quan hệ bất chính với người phụ nữ khác dẫn đến bất đồng quan điểm sống, bà P và ông L thường xuyên cãi vã, bà P cảm thấy không thể sống chung với nhau được nữa nên ly thân từ năm 2020 đến nay. Nay bà P yêu cầu ly hôn với ông L.
Về con chung: Có 02 con chung tên Trần Thị Ph, sinh ngày 01/8/2004 và Trần Văn K, sinh ngày 19/7/2004, hiện đang sống với bà P. Bà P yêu cầu được nuôi con, không yêu cầu ông L cấp dưỡng nuôi con. Bà P có lời khai bổ sung, thực tế con tên Trần Thị Ph, sinh ngày 01/8/2002, chứ không phải sinh năm 2004 do lúc đi làm khai sinh cán bộ đánh nhầm. Hiện nay các con đã trưởng thành và tự lập được nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Về tài sản chung, nợ chung: Bà P khai không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án tống đạt hợp lệ văn bản tố tụng cho ông L nhưng ông L vắng mặt.
Kết quả xác minh tại Công an xã VT, thành phố X: Ông Trần Văn L có đăng ký hộ khẩu thường trú tại địa phương: tổ 11, ấp CC, xã VT, thành phố X, tỉnh An Giang.
Bà Lê Thị Cúc cho biết: Bà là em dâu của ông L, ông L chung sống với vợ chồng bà (ông Trần Văn Lượng và Lê Thị Cúc) trong nhà phủ thờ, vợ chồng bà P, ông L chung sống với nhau có 02 con chung tên Trần Thị Ph và Trần Văn K, quá trình chung sống thì vợ chồng có mâu thuẫn nên bà P về nhà cha mẹ ruột sinh sống, bà và ông Lượng (là em ruột của ông L) có nhận các văn bản tố tụng của Tòa án, bà và ông Lượng có thông báo lại cho ông L biết. Ông L biết việc bà P xin ly hôn.
Tòa án tiến hành mở phiên họp công khai chứng cứ hòa giải giữa các đương sự, tuy nhiên ông L vắng mặt không có lý do.
- Ý kiến của Kiểm sát viên tham gia phiên tòa:
Việc tuân theo pháp luật trong thời gian chuẩn bị xét xử: Thẩm phán được phân công thụ lý giải quyết vụ án đã thực hiện đúng, đầy đủ quy định tại Điều 48 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015. Xác định thẩm quyền thụ lý quan hệ pháp luật tranh chấp, tư cách pháp lý của các đương sự, thu thập đầy đủ tài liệu, chứng cứ để làm căn cứ giải quyết vụ án và lập hồ sơ đúng theo quy định tại các Điều 195, 196, 198 và Điều 203 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015. Hội đồng xét xử, Thư ký Tòa án đã tuân theo đúng các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 về xét xử sơ thẩm vụ án. Việc tuân theo pháp luật của người tham gia tố tụng dân sự trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn đã thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ tố tụng theo quy định của pháp luật.
Tại phiên tòa, nguyên đơn có yêu cầu xét xử vắng mặt, bị đơn đã triệu tập hợp lệ nhưng vẫn vắng mặt nên đề nghị Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt các đương sự theo quy định tại Điều 227, 228, Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.
Về việc giải quyết vụ án:
- Về hôn nhân: Năm 2001, bà P và ông L tìm hiểu và đi đến hôn nhân, có đăng ký kết hôn nên làm phát sinh quyền và nghĩa vụ của vợ chồng. Quá trình chung sống, thời gian đầu vợ chồng sống hạnh phúc, đến năm 2018 vợ chồng phát sinh mâu thuẫn, do bất đồng quan điểm sống và đã không còn chung sống với nhau từ năm 2020 đến nay. Nhận Thấy, mâu thuẫn vợ chồng đến mức trầm trọng không thể hàn gắn, bà P yêu cầu ly hôn với ông L. Bị đơn ông L đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhưng không tham gia hòa giải, không trình bày ý kiến về yêu cầu của bà P.
Xét, vợ chồng phải có nghĩa vụ thương yêu, chung thủy, tôn trọng, quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ nhau; cùng nhau chia sẻ, thực hiện các công việc trong gia đình và sống chung với nhau. Tuy nhiên, bà P và ông L xảy ra mâu thuẫn, hiện không còn sống chung với nhau, thời gian dài sống xa cách cả hai không chủ động hàn gắn tình cảm vợ chồng. Nhận thấy, mâu thuẫn vợ chồng bà P, ông L đã đến mức trầm trọng, không thể hàn gắn, mục đích hôn nhân không đạt được. Do đó, việc bà P yêu cầu ly hôn với ông L là có cơ sở chấp nhận.
- Về con chung: Có 02 con chung tên Trần Thị Ph, sinh ngày 01/8/2004 (thực tế sinh ngày 01/8/2002) và Trần Văn K, sinh ngày 19/7/2004, cả hai đã trưởng thành, có khả năng lao động, không yêu cầu giải quyết nên không đặt ra xem xét, giải quyết.
Về tài sản chung, nợ chung: không có, không yêu cầu nên không đặt ra xem xét, giải quyết.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:
Về tố tụng:
[1] Về thẩm quyền: Nguyên đơn khởi kiện yêu cầu ly hôn với bị đơn. Bị đơn cư trú trên địa bàn thành phố X. Xét, đây là tranh chấp về hôn nhân và gia đình, ly hôn thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố X theo quy định tại khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35 và khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.
[2] Về sự vắng mặt của đương sự: Nguyên đơn vắng mặt có đơn yêu cầu xét xử vắng mặt, bị đơn vắng mặt lần thứ hai tại phiên tòa không có lý do. Vì vậy, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt nguyên đơn và bị đơn theo quy định tại Điều 227, Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.
Về nội dung:
[3] Về quan hệ hôn nhân, nguyên đơn và bị đơn kết hôn trên cơ sở tự nguyện và đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã VT theo giấy chứng nhận số 44/HT, quyển số 01/2006 ngày 13/7/2006 nên được xem là hôn nhân hợp pháp làm phát sinh quyền và nghĩa vụ của vợ chồng.
Xét, vợ chồng phải có nghĩa vụ thương yêu, quý trọng, chăm sóc, giúp đỡ lẫn nhau, thế nhưng bà P và ông L đã không còn sống chung với nhau từ năm 2020 đến nay do nhiều mâu thuẫn, bất đồng quan điểm sống. Từ đó, cho thấy tình trạng hôn nhân của bà P, ông L là trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được nên việc bà P khởi kiện yêu cầu ly hôn với ông L là có căn cứ chấp nhận theo quy định tại khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 như quan điểm đề nghị của Kiểm sát viên.
[4] Về con chung: Có 02 con chung tên Trần Thị Ph, sinh ngày 01/8/2004 (thực tế sinh ngày 01/8/2002) và Trần Văn K, sinh ngày 19/7/2004. Hiện đến ngày xét xử các con đã trưởng thành và tự lập được nên bà P không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không đề cập xem xét giải quyết.
[5] Về tài sản chung, nợ chung: Bà P khai không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không đề cập xem xét giải quyết.
[6] Về án phí hôn nhân sơ thẩm, nguyên đơn phải chịu 300.000 đồng án phí hôn nhân sơ thẩm. Bị đơn không phải chịu án phí hôn nhân sơ thẩm.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào Điều 56 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014; Điều 147 và Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án;
Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Nguyễn Thị P.
1. Về quan hệ hôn nhân: Bà Nguyễn Thị P được ly hôn với ông Trần Văn L.
Giấy chứng nhận kết hôn số 44/HT, quyển số 01/2006 ngày 13/7/2006 của Ủy ban nhân dân xã VT, thành phố X, tỉnh An Giang không còn giá trị pháp lý.
2. Về án phí hôn nhân sơ thẩm:
Bà Nguyễn Thị P phải chịu 300.000 (ba trăm nghìn) đồng án phí hôn nhân sơ thẩm nhưng được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí hôn nhân sơ thẩm đã nộp là 300.000 (ba trăm nghìn) đồng theo biên lai số 0002008 ngày 03 tháng 3 năm 2022 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố X, bà P đã nộp đủ án phí.
Ông Trần Văn L không phải chịu án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm.
3. Về quyền kháng cáo: Trong hạn 15 ngày kể từ nhận tống đạt bản án hoặc bản án được niêm yết, nguyên đơn, bị đơn có quyền kháng cáo để yêu cầu Toà án nhân dân tỉnh An Giang xét xử phúc thẩm.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
Bản án về tranh chấp hôn nhân và gia đình, ly hôn số 37/2022/HNGĐ-ST
Số hiệu: | 37/2022/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Long Xuyên - An Giang |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 05/08/2022 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về