Bản án về tranh chấp hôn nhân và gia đình, ly hôn số 262/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN A, TỈNH AN GIANG

BẢN ÁN 262/2022/HNGĐ-ST NGÀY 17/06/2022 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH, LY HÔN

Trong ngày 17 tháng 6 năm 2022, tại Trụ sơ Toa an nhân dân huyên A xét xử sơ thâm công khai vu an dân sự thụ lý số : 99/2022/TLST - HNGĐ ngày 22 tháng 02 năm 2022 vê viêc: “Tranh chấp hôn nhân và gia đình, ly hôn” theo Quyêt đinh đưa vu an ra xét xử số : 212/2022/QĐST-HNGĐ ngay 15/5/2022 và quyết định hoãn phiên tòa số: 334/2022/QĐST-DS ngày 31/5/2022 giưa cac đương sư:

Nguyên đơn: Lâm Thị Cẩm V, sinh năm 1992; địa chỉ: tổ 04, ấp V, V, huyện A, tỉnh An Giang.

Bị đơn: Ông Kiều Phú N, sinh năm 1988; địa chỉ: tổ 19, ấp P, xã P, huyện A, tỉnh An Giang.

(Bà V, ông N vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện, bản tự khai cùng với các tài liệu, chứng cứ kèm theo và quá trình tố tụng tại Tòa án, bà Lâm Thị Cẩm V, trình bày: Bà và ông N là do mai mối, được cha mẹ hai bên đồng ý tổ chức lễ cưới vào năm 2018, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã P, huyện A, tỉnh An Giang vào năm 2018. Cuộc sống vợ chồng hạnh phúc đến năm 2018 thì bắt đầu phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân là do vợ chồng bất đồng quan điểm sống, ông N không chăm lo cuộc sống gia đình nên thường xuyên cự cãi, các bên không có tiếng nói chung. Đến tháng 12/2018 mâu thuẫn tình cảm đã thật sự trầm trọng nên bà V bỏ về nhà mẹ ruột sống và ly thân với ông N cho đến nay.

Từ khi ly thân đế nay, bà và ông N có liên lạc với nhau, chủ yếu là thăm con, gia đình hai bên cũng khuyên ngăn, hàn gắn tình cảm cho bà và ông N nhưng hai bên không còn tình cảm và không thể hàn gắn được. Nay bà yêu cầu được ly hôn với ông N.

Về quan hệ con chung: Bà với ông N có 01 con chung tên Kiều Lâm Phú M, sinh ngày: 26/3/2016. Hiện con chung đang sống với ông N. Khi ly hôn, bà đồng ý giao con chung cho ông N được tiếp tục nuôi dạy và xin không cấp dưỡng nuôi con.

Về quan hệ tài sản chung, nợ chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tòa án tiến hành kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ để các bên tiếp cận, bà V thống nhất với những tài liệu, chứng cứ mà mình cung cấp, không bổ sung thêm.

Để đảm bảo quyền lợi của ông N Tòa án tiến hành ghi lời khai của ông N và cháu M nhưng khi đến nhà thì ông N, cháu M đi vắng nên không tiến hành ghi lời khai được.

Để xác định nguyên nhân của việc phát sinh tranh chấp, Tòa án đã thực hiện thủ tục thu thập chứng cứ là xác minh tình trạng mâu thuẫn cụ thể:

Tại Biên xác minh ngày 29/4/2022 người thân bà V cung cấp: Nguyên nhân mâu thuẫn giữa bà V, ông N là do hai bên mâu thuẫn, thường xuyên cãi nhau, ông N có lời lẽ thô tục, thậm chí còn bạo lực bà V. Gia đình hai bên hàn gắn cho bà V, ông N nhiều lần, nhưng không được. Theo bà, bà V và ông N không thể sống chung được; về con chung thì có một con chung sinh năm 2016, hiện đang sống với ông N; tài sản chung, nợ chung bà không biết.

Tại phiên toà hôm nay: Bà V có đơn xin xét xử vắng mặt và bảo lưu ý kiến. Riêng ông N đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt nên Hội đồng xét xử, xét xử vắng mặt các đương sự theo thủ tục chung.

Quan điểm đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện A:

Về thủ tục tố tụng: Tòa án thụ lý, xác định quan hệ tranh chấp, xác định tư cách đương sự, thu thập chứng cứ đảm bảo quy định của pháp luật tố tụng dân sự; thành phần Hội đồng xét xử không thuộc trường hợp phải thay đổi; thủ tục xét xử vắng mặt được đảm bảo.

Về hôn nhân: Căn cứ vào các chứng cứ trong hồ sợ vụ án cho thấy hôn nhân của bà V, ông N có mâu thuẫn trầm trọng, thời gian ly thân đã lâu nhưng hai bên không có thiện chí hàn gắn, mục đích hôn nhân không đạt được, đời sống chung không thể kéo dài nên đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu ly hôn của bà V theo quy định tại Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình.

Về con chung: Để đảm bảo điều kiện cho con chung phát triển và ổn định về tâm sinh lý của cháu sau này được tốt, bà V cũng đồng ý để cháu Kiều Lâm Phú M cho ông N nuôi dạy nên đề nghị Hội đồng xét xử để cháu M cho ông N nuôi dạy.

Về nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung: Theo quy định của pháp luật, bên không trực tiếp nuôi con có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con. Do ông N không có văn bản yêu cầu nên đề nghị Hội đồng xét xử không xem xét.

Về quan hệ tài sản chung, nợ chung: Do các đương sự không yêu cầu, nên đề nghị Hội đồng xét xử không xem xét.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cưu cac tai liêu , chưng cư co trong hô sơ vu an , đa đươc thâm tra tại phiên tòa và sau khi nghe đương sự trình bày tại phiên tòa. Hôi đông xet xư nhận định:

[1] Về tố tụng: Bà Lâm Thị Cẩm V khởi kiện yêu cầu ly hôn với ông Kiều Phú N. Ông N có nơi cư trú trên địa bàn huyện A. Căn cứ khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự, đây là tranh chấp về hôn nhân và gia đình, ly hôn nên thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện A.

Về sự vắng mặt của đương sự: Bà V vắng mặt nhưng có đơn xin xét xử vắng mặt, ông N được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai để tham gia phiên tòa nhưng vẫn vắng mặt không có lý do nên Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt bà V, ông N theo Điều 227, Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự.

[2] Về quan hệ hôn nhân: Hôn nhân giữa bà V và ông N có đăng ký kết hôn theo quy định nên làm phát sinh giá trị pháp lý theo Điều 9 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014.

Xét yêu cầu của bà V xin ly hôn với ông N: Trong đời sống hôn nhân thường hay phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân chủ yếu là do vợ chồng bất đồng quan điểm sống, thường xuyên cự cãi, không hòa hợp tính tình nên mâu thuẫn vợ chồng ngày càng trầm trọng và sống ly thân. Đều này phù hợp kết quả xác minh.

Qua hòa giải, bà V vẫn kiên quyết xin ly hôn với ông N, còn ông N đã được tống đạt hợp lệ thông báo hòa giải những vẫn không đến tham gia hòa giải. Cho thấy, mục đích hôn nhân giữa bà V và ông N không đạt được, đời sống chung không thể kéo dài, mâu thuẫn vợ chồng đã thật sự trầm trọng nên yêu cầu ly hôn của bà V là có căn cứ chấp nhận theo quy định tại Điều 56 của Luật hôn nhân và gia đình.

[3] Về con chung: Bà V và ông N có 01 con chung tên Kiều Lâm Phú M, sinh ngày: 26/3/2016, cháu đang sống với ông N. Bà V đồng ý để con cho ông N nuôi dạy. Xét thấy cháu M đang sống chung với ông N, để đảm bảo điều kiện cho con chung phát triển và ổn định về tâm sinh lý của cháu sau này được tốt nên Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của bà V là giao cháu M cho ông N tiếp tục nuôi dạy.

Về nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung: Theo quy định của pháp luật, bên không trực tiếp nuôi con có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con. Do không ghi nhận đựo ý kiến ông N và ông N cũng không có văn bản yêu cầu nên Hội đồng xét xử không xem xét, nếu sau này có tranh chấp sẽ được giải quyết bằng một vụ án khác.

Hội đồng xét xử cũng giải thích cho các đương sự biết:

Ông N cùng các thành viên gia đình (nếu có) không được cản trở bà V trong việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con.

Vì lợi ích của con, theo yêu cầu của người thân thích của con, cơ quan có thẩm quyền, Tòa án có thể quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con, thay đổi mức cấp dưỡng nuôi con chung dựa trên các căn cứ do pháp luật quy định. Hạn chế quyền của của cha mẹ đối với con chưa thành niên.

[4] Về tài sản chung, nợ chung: Bà V không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[5] Về án phí: Bà V phải chịu án phí hôn nhân sơ thẩm.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào:

Các Điều 9, Điều 51, Điều 53, Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83, Điều 84 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014;

Các Điều 147, Điều 227, Điều 228, Điều 238, Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;

Điểm a, khoản 5 Điều 27 Nghị quyết: 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc hội khóa 14 hướng dẫn về án phí, lệ phí Tòa án.

Xử: Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của bà Lâm Thị Cẩm V.

Về quan hệ hôn nhân: Bà Lâm Thị Cẩm V được ly hôn với ông Kiều Phú N.

Giấy chứng nhận kết hôn số: 24 ngày 31/01/2018 của Ủy ban nhân dân xã P, huyện A, tỉnh An Giang không còn giá trị pháp lý khi bản án có hiệu lực pháp luật.

Về con chung: Ông Kiều Phú N được tiếp tục nuôi con chung tên Kiều Lâm Phú M, sinh ngày: 26/3/2016. Bà V không phải cấp dưỡng nuôi con chung.

Ông N cùng các thành viên gia đình (nếu có) không được cản trở bà V trong việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con.

Vì lợi ích của con, theo yêu cầu của người thân thích của con, cơ quan có thẩm quyền, Tòa án có thể quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con, thay đổi mức cấp dưỡng nuôi con chung dựa trên các căn cứ do pháp luật quy định. Hạn chế quyền của của cha mẹ đối với con chưa thành niên.

Về án phí: Bà Lâm Thị Cẩm V phải chịu 300.000 (Ba trăm nghìn) đồng án phí hôn nhân sơ thẩm, được khấu trừ vào tiền tạm ứng án phí mà bà đã nộp theo biên lai thu số 0006819 ngày 22/02/2022 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện A.

Các đương sự được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết tại nơi cư trú.

(Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, Điều 7 và Điều 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự).

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

123
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp hôn nhân và gia đình, ly hôn số 262/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:262/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện An Phú - An Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 17/06/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về