Bản án về tranh chấp hôn nhân và gia đình, ly hôn số 229/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN A, TỈNH AN GIANG

BẢN ÁN 229/2022/HNGĐ-ST NGÀY 31/05/2022 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH, LY HÔN

Trong ngày 31 tháng 5 năm 2022, tại Trụ sơ Toa an nhân dân huyên A xét xư sơ thâm công khai vu an dân sự thụ lý số : 59/2022/TLST - HNGĐ ngày 15 tháng 02 năm 2022 vê viêc: “Tranh chấp hôn nhân và gia đình, ly hôn” theo Quyêt đinh đưa vu an ra xet xư sô: 196/2022/QĐST-HNGĐ ngày 19/4/2022 và quyết định hoãn phiên tòa số: 274/2022/QĐST-DS ngày 11/5/2022 giưa cac đương sư:

- Nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị H, sinh năm: 1979.

Nơi cư trú: Tổ 11, ấp Q, xã Q, huyện A, tỉnh An Giang.

- Bị đơn: Ông Nguyễn Văn C, sinh năm: 1980.

Nơi cư trú: Tổ 16, ấp P, xã P, huyện A, tỉnh An Giang.

(Bà H, ông C vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện, bản tự khai cùng với các tài liệu, chứng cứ kèm theo và quá trình tố tụng tại Tòa án, bà Nguyễn Thị H trình bày: Hôn nhân giữa bà với ông C là do mai mối được cha mẹ đồng ý, có tổ chức lễ cưới vào năm 2004, có đăng ký kết hôn vào năm 2012 tại Uỷ ban nhân dân xã P, huyện A, tỉnh An Giang. Hôn nhân hạnh phúc đến năm 2020 thì bắt đầu phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân là do bất đồng quan điểm sống nên thường xuyên cự cãi, không có tiếng nói chung. Ông C không quan tâm đến vợ con về tinh thần lẫn vật chất, một mình bà phải kiếm tiền nuôi con. Từ tháng 11/2021 thì ông C bỏ về nhà mẹ ruột tại xã P sống và sống ly thân với bà cho đến nay. Trong thời gian ly thân, cả hai không liên lạc với nhau, gia đình hai bên cũng không hàn gắn tình cảm. Nay bà yêu cầu được ly hôn với ông C.

Về con chung: Bà với ông C có hai con chung tên: 1/ Nguyễn Hữu V, sinh ngày: 06/7/2005; 2/ Nguyễn Thị Cẩm L, sinh ngày: 24/10/2007. Hiện hai con chung đang sống với bà. Khi ly hôn, bà yêu cầu được tiếp tục nuôi hai con chung, không yêu cầu ông C cấp dưỡng.

Về tài sản chung, nợ chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tòa án tiến hành kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ để các bên tiếp cận, bà H thống nhất với những tài liệu, chứng cứ mà mình cung cấp, không bổ sung thêm.

Để đảm bảo quyền lợi của ông C Tòa án tiến hành ghi lời khai của ông nhưng khi đến nhà thì ông C đi vắng nên không tiến hành ghi lời khai ông được.

Để xác định nguyên nhân của việc phát sinh tranh chấp, Tòa án đã thực hiện thủ tục thu thập chứng cứ. Cụ thể:

Qua xác minh, ông Nguyễn Văn C vẫn còn đăng ký hộ khẩu tại ấp P, xã P, huyện A, tỉnh An Giang. Ngoài ra, theo biên bản xác minh ngày 20/4/2022, ông Nguyễn Văn H – em ruột bà H cho biết: Nguyên nhân mâu thuẫn giữa bà H và ông C là do ông C thường xuyên ăn nhậu, có một lần nhậu đến nguyên ngày rồi cự cãi với bà H, sau đó ông C bỏ đi và ly thân với bà H cho đến nay. Theo ông, khả năng hàn gắn của bà H và ông C là không thể; về con chung thì có hai con chung hiện đang sống chung với bà H; tài sản chung, nợ chung ông không biết.

Biên bản ghi lời khai con chung ngày 07/3/2022 hai cháu Nguyễn Hữu V và Nguyễn Thị Cẩm L đều có nguyện vọng được tiếp tục sống với mẹ.

Tại phiên tòa: Bà H vắng mặt nhưng có đơn xin xét xử vắng mặt và bảo lưu ý kiến. Riêng ông C đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt nên Hội đồng xét xử, xét xử vắng mặt các đương sự theo thủ tục chung.

Quan điểm đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện A:

Về thủ tục tố tụng: Tòa án thụ lý, xác định quan hệ tranh chấp, xác định tư cách đương sự, thu thập chứng cứ đảm bảo quy định của pháp luật tố tụng dân sự; thành phần Hội đồng xét xử không thuộc trường hợp phải thay đổi; thủ tục xét xử vắng mặt được đảm bảo.

Về quan hệ hôn nhân: Căn cứ vào các chứng cứ trong hồ sợ vụ án cho thấy hôn nhân của bà H, ông C có mâu thuẫn trầm trọng, thời gian ly thân đã lâu nhưng hai bên không có thiện chí hàn gắn, mục đích hôn nhân không đạt được, đời sống chung không thể kéo dài nên đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu ly hôn của bà H theo quy định tại Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình.

Về con chung: Để đảm bảo điều kiện cho con chung phát triển và ổn định về tâm sinh lý cũng như theo nguyện vọng các cháu nên đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của bà H, giao hai con chung cho bà H được tiếp tục nuôi dạy.

Về nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung: Theo quy định của pháp luật, bên không trực tiếp nuôi con có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con. Tuy nhiên, do bà H không yêu cầu nên đề nghị Hội đồng xét xử công nhận sự tự nguyện của bà H.

Về quan hệ tài sản chung, nợ chung: Đương sự không yêu cầu nên đề nghị Hội đồng xét xử không xem xét.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cưu cac tai liêu, chưng cư co trong hô sơ vu an, đa đươc thâm tra tai phiên toa và sau khi nghe đương sự trình bày tại phiên tòa. Hôi đông xet xư nhận định:

[1] Về tố tụng: Bà Nguyễn Thị H khởi kiện yêu cầu ly hôn với ông Nguyễn Văn C. Ông C có nơi cư trú trên địa bàn huyện A. Căn cứ khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự, đây là tranh chấp về hôn nhân và gia đình, ly hôn nên thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện A.

Về sự vắng mặt của đương sự: Bà H vắng mặt nhưng có đơn xin xét xử vắng mặt, ông C được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai để tham gia phiên tòa nhưng vẫn vắng mặt không có lý do nên Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt bà H, ông C theo Điều 227, Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự.

[2] Về quan hệ hôn nhân: Hôn nhân giữa bà H và ông C có đăng ký kết hôn theo quy định nên làm phát sinh giá trị pháp lý theo Điều 9 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014.

Xét yêu cầu của bà H xin ly hôn với ông C: Trong đời sống hôn nhân thường hay phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân chủ yếu là do vợ chồng bất đồng quan điểm sống, thường xuyên cự cãi, không hòa hợp tính tình nên mâu thuẫn vợ chồng ngày càng trầm trọng và sống ly thân từ tháng 4/2021 cho đến nay. Đều này phù hợp với kết quả xác minh tình trạng mâu thuẫn.

Qua hòa giải, bà H vẫn kiên quyết xin ly hôn với ông C còn ông C đã được tống đạt hợp lệ thông báo hòa giải những vẫn không đến tham gia hòa giải. Cho thấy, mục đích hôn nhân giữa bà H và ông C không đạt được, đời sống chung không thể kéo dài, mâu thuẫn vợ chồng đã thật sự trầm trọng nên yêu cầu ly hôn của bà H là có căn cứ chấp nhận theo quy định tại Điều 56 của Luật hôn nhân và gia đình.

[3] Về con chung: Bà H yêu cầu được tiếp tục nuôi hai con chung là cháu Nguyễn Hữu V, sinh ngày: 06/7/2005 và Nguyễn Thị Cẩm L, sinh ngày:

24/10/2007. Xét thấy con chung đang sống chung với bà H; tại các biên bản lời khai các cháu cũng có nguyện vọng được tiếp tục sống chung với mẹ. Để đảm bảo điều kiện cho con chung phát triển và ổn định về tâm sinh lý, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của bà H, giao hai con chung cho bà H được tiếp tục nuôi dạy.

Về nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung: Theo quy định của pháp luật, bên không trực tiếp nuôi con có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con. Tuy nhiên, bà H không yêu cầu nên Hội đồng xét xử nghĩ nên công nhận.

Hội đồng xét xử cũng giải thích cho các đương sự biết:

Bà H cùng các thành viên gia đình (nếu có) không được cản trở ông C trong việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con.

Vì lợi ích của con, theo yêu cầu của người thân thích của con, cơ quan có thẩm quyền, Tòa án có thể quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con, thay đổi mức cấp dưỡng nuôi con chung dựa trên các căn cứ do pháp luật quy định. Hạn chế quyền của của cha mẹ đối với con chưa thành niên.

[4] Về tài sản chung, nợ chung: Bà H không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[5] Về án phí: Bà H phải chịu án phí hôn nhân sơ thẩm.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ:

Các Điều 9, Điều 51, Điều 53, Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83, Điều 84 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014;

Các Điều 147, Điều 227, Điều 228, Điều 238, Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;

Điểm a, khoản 5 Điều 27 Nghị quyết: 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc hội khóa 14 hướng dẫn về án phí, lệ phí Tòa án.

Xư: Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Thị H.

Về quan hệ hôn nhân: Bà Nguyễn Thị H được ly hôn với ông Nguyễn Văn C.

Giấy chứng nhận kết hôn số: 116/HT, quyển số I/04 ngày 06/9/2004 của Ủy ban nhân dân xã P, huyện A, tỉnh An Giang không còn giá trị pháp lý khi bản án có hiệu lực pháp luật.

Về con chung: Bà Hiến được tiếp tục nuôi con chung Nguyễn Hữu V, sinh ngày: 06/7/2005 và Nguyễn Thị Cẩm L, sinh ngày: 24/10/2007.

Công nhận sự tự nguyện của bà H về việc không yêu cầu ông C cấp dưỡng nuôi con chung.

Bà H cùng các thành viên gia đình (nếu có) không được cản trở ông C trong việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con.

Vì lợi ích của con, theo yêu cầu của người thân thích của con, cơ quan có thẩm quyền, Tòa án có thể quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con, thay đổi mức cấp dưỡng nuôi con chung dựa trên các căn cứ do pháp luật quy định. Hạn chế quyền của của cha mẹ đối với con chưa thành niên.

Về án phí: Bà Nguyễn Thị H phải chịu 300.000 (Ba trăm nghìn) đồng án phí hôn nhân sơ thẩm, được khấu trừ vào tiền tạm ứng án phí mà bà đã nộp theo biên lai thu số 0006782 ngày 15/02/2022 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện A.

Các đương sự được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết tại nơi cư trú.

(Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, Điều 7 và Điều 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự).

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

191
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp hôn nhân và gia đình, ly hôn số 229/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:229/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tân Phước - Tiền Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành:31/05/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về