Bản án về tranh chấp hôn nhân và gia đình, ly hôn số 221/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN A, TỈNH AN GIANG

BẢN ÁN 221/2022/HNGĐ-ST NGÀY 30/05/2022 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH, LY HÔN

Ngày 30 tháng 5 năm 2022, tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện A xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 114/2022/TLST-HNGĐ ngày 01 tháng 3 năm 2022 về việc: “Tranh chấp hôn nhân và gia đình, ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 230/2022/QĐXXST-HNGĐ ngày 28 tháng 4 năm 2022 và Quyết định hoãn phiên tòa số: 282A/2022/QĐST-HNGĐ ngày 12 tháng 5 năm 2022 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Bà Phạm Thị L, sinh năm: 1989; Địa chỉ: Tổ 18, ấp Q, xã Q, huyện A, tỉnh An Giang;

Bị đơn: Ông Võ Văn B; sinh năm 1987; Địa chỉ: Tổ 02, ấp B, xã K, huyện A, tỉnh An Giang.

(Bà L có mặt, ông B vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện ngày 25/02/2022 cùng với các tài liệu, chứng cứ kèm theo và quá trình tố tụng tại Tòa án, bà Phạm Thị L trình bày: Bà và ông B tự tìm hiểu và tiến đến hôn nhân năm 2018, có đăng ký kết hôn số 07 ngày 26/01/2018 tại Ủy ban nhân dân xã K, huyện A, tỉnh An Giang. Thời gian đầu vợ chồng sống hạnh phúc nhưng đến cuối năm 2021 ông B ham mê cờ bạc dẫn đến tiêu tan tài sản gia đình, bà nhiều lần khuyên ngăn nhưng ông B vẫn không thay đổi nên xảy ra mâu thuẫn và thường xuyên cãi nhau, không tìm được tiếng nói chung trong cuộc sống gia đình. Ly thân từ cuối năm 2021 đến nay. Trong thời gian ly thân gia đình hai bên có hàn gắn nhưng không thành. Nay, bà yêu cầu được ly hôn với ông B.

Về con chung: Có 01 con chung tên Võ Ngọc Tú U, sinh ngày 06/12/2020. Từ khi ly thân đến nay, con chung sống với bà L. Khi ly hôn, bà yêu cầu được tiếp tục nuôi dưỡng con chung, không yêu cầu ông B cấp dưỡng nuôi con chung.

- Về tài sản chung và nợ chung: Không có, không yêu cầu giải quyết.

Trong quá trình giải quyết vụ án, ông B không có mặt theo triệu tập của Tòa nên không ghi nhận được ý kiến của ông B; ông B cũng không gửi văn B trình bày ý kiến. Bà L có yêu cầu không tiến hành hòa giải.

Về tài liệu chứng cứ: Các tài liệu chứng cứ các đương sự giao nộp đã được thẩm tra và công khai trong quá trình hòa giải, các đương sự không có ý kiến gì về các tài liệu chứng cứ và tại phiên tòa không ai giao nộp bổ sung thêm tài liệu chứng cứ khác.

Theo cung cấp của Công an xã K tại Biên biên B xác minh ngày 18/5/2022 được biết, ông Võ Văn B; sinh năm 1987 hiện vẫn còn đăng ký hộ khẩu thường trú và sinh sống tại Địa chỉ: Tổ 02, ấp B, xã K, huyện A, tỉnh An Giang.

Tại phiên tòa, bà L bảo lưu ý kiến.

Quan điểm của vị đại diện Viện kiểm sát về tuân thủ pháp luật của Thẩm phán trong ghi lời khai, thủ tục xét xử vắng mặt, xác định quan hệ tranh chấp, tư cách người tham gia tố tụng… là hoàn toàn phù hợp với pháp luật tố tụng dân sự. Đối với thành phần Hội đồng xét xử không có thành viên nào thuộc đối tượng phải thay đổi, việc xét hỏi tại phiên tòa, thời hạn xét xử cũng như thủ tục xét xử vắng mặt được đảm bảo.

Quan điểm của vị đại diện Viện kiểm sát về nội dung: Yêu cầu của nguyên đơn về hôn nhân và con chung có căn cứ nên đề nghị chấp nhận. Đối với tài sản chung ông B vắng mặt nếu sau này ông B chứng minh về tài sản chung thì sẽ xem xét giải quyết bằng một vụ kiện khác.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và đã được thẩm tra tại phiên tòa và sau khi nghe đương sự trình bày tại phiên tòa. Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng: Bà Phạm Thị L khởi kiện yêu cầu ly hôn với ông Võ Văn B.

Đồng thời, ông B cư trú trên địa bàn huyện A. Căn cứ khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự, đây là tranh chấp về hôn nhân và gia đình nên thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện A.

[2] Về nội dung: Quan hệ hôn nhân giữa bà L, ông B có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã K theo quy định nên được xem là hôn nhân hợp pháp thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nên thụ lý, giải quyết theo Điều 53 của Luật hôn nhân và gia đình.

Xét yêu cầu của bà L xin ly hôn với ông B, Hội đồng xét xử xét thấy thời gian ly thân giữa bà L, ông B đã lâu nhưng cả hai không có giải pháp hàn gắn. Đồng thời gia đình hai bên có hàn gắn nhưng không thành. Xét thấy mâu thuẫn của bà L, ông B không thể hàn gắn. nên Hội đồng xét xử chấp nhận ly hôn theo yêu cầu của bà L theo quy định tại Điều 56 của Luật hôn nhân và gia đình.

[3] Về con chung: Có 01 con chung Võ Ngọc Tú U, sinh ngày 06/12/2020. Con chung hiện nay đang sống với bà L. Bà L và ông B đều yêu cầu nuôi con chung. Xét thấy, từ khi ly thân đến nay, cháu Uyên đang sống với bà L. Do đó, để tránh xáo trộn về mặt tâm lý đối với con chung và đảm bảo quyền lợi về mọi mặt của con chưa thành niên nên Hội đồng xétt xử chấp nhận cho bà L tiếp tục nuôi cháu Uyên là phù hợp.

Về cấp dưỡng: Bà L không yêu cầu nên Hội đồng xét xử công nhận sự tự nguyện của bà L.

[5] Về tài sản chung: Bà L xác định không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không xem xét, giải quyết. Tuy nhiên, nếu ông B có căn cứ xác định có tài sản chung thì có thể khởi kiện và sẽ được giải quyết bằng một vụ án khác.

[6] Về nợ chung: Bà L và ông B không yêu cầu nên không xem xét.

[7] Về án phí: Bà L là nguyên đơn nên phải chịu án phí hôn nhân sơ thẩm.

Ông Vũ không phải chịu án phí.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào các Điều 51, Điều 53, khoản 1 Điều 56, Điều 8, 82, 83, 84 Luật hôn nhân và gia đình;

Căn cứ khoản 4 Điều 147, các Điều 227, 228, 273 Bộ luật Tố tụng dân sự; Căn cứ Điều 27, Nghị quyết số 326/2016 UBTVQH 14, ngày 30/12/2016; Xử: Chấp nhận toàn bộ yêu cầu của bà Phạm Thị L.

Về hôn nhân: Bà Phạm Thị L được ly hôn với ông Võ Văn B.

Giấy chứng nhận đăng ký kết hôn số 07 ngày 26/01/2018 của Ủy ban nhân dân xã K, huyện A, tỉnh An Giang không còn giá trị pháp lý kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật.

Về con chung: Bà Phạm Thị L được tiêp tục nuôi con chung Võ Ngọc Tú U, sinh ngày 06/12/2020. Công nhận sự tự nguyện của bà L không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con chung.

Bà L cùng các thành viên gia đình không được cản trở ông B trong việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con.

Vì lợi ích của con, theo yêu cầu của người thân thích của con, cơ quan có thẩm quyền, Tòa án có thể quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con, buộc cấp dưỡng nuôi con chung dựa trên các căn cứ do pháp luật quy định.

Về án phí: Bà L phải chịu 300.000 (ba trăm nghìn) đồng án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm. Khấu trừ 300.000 đồng từ tiền tạm ứng án phí theo biên lai thu số 0006843 ngày 01/3/2022 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện A. Bà L nộp đủ.

Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (ngày 30/5/2022), bà L được quyền kháng cáo để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh An Giang xét xử phúc thẩm. Thời hạn kháng cáo của ông B là 15 ngày kể từ ngày nhận tống đạt bản án hoặc từ ngày bản án được niêm yết.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, Điều 7 và Điều 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

77
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp hôn nhân và gia đình, ly hôn số 221/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:221/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện An Phú - An Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: đang cập nhật
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về