Bản án về tranh chấp hôn nhân và gia đình, ly hôn, nuôi con chung số 67/2021/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ TÂN CHÂU TỈNH AN GIANG

 BẢN ÁN 67/2021/HNGĐ-ST NGÀY 16/09/2021 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH, LY HÔN, NUÔI CON CHUNG

Ngày 16 tháng 9 năm 2021, tại trụ sở Toà án nhân dân thị xã Tân Châu xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân và gia đình thụ lý số: 447/2020/TLST- HNGĐ ngày 18/11/2020 về việc “Tranh chấp hôn nhân và gia đình, ly hôn, nuôi con chung” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 85/2021/QĐXXST-HNGĐ ngày 18 tháng 5 năm 2021 và quyết định hoãn phiên tòa số 81/2021/QĐST- HNGĐ ngày 14/6/2021, thông báo dời phiên tòa số 85 /TB-TA ngày 30/8/2021 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Lê Thị Tuyết N, sinh năm 1994; địa chỉ cư trú: Số 393, tổ 10, ấp Vĩnh Tường 1, xã Châu Phong, thị xã Tân Châu, tỉnh An Giang; có mặt

- Bị đơn: Anh Võ Văn Đ, sinh năm 1989; địa chỉ cư trú: Số 462, tổ 15, ấp Vĩnh Lợi 2, xã Châu Phong, thị xã Tân Châu, tỉnh An Giang; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

- Theo đơn khởi kiện, bản tự khai ngày 09/11/2020, các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa, chị Lê Thị Tuyết N trình bày: Về hôn nhân tôi với anh Võ Văn Đ do người lớn mai mối, cha mẹ hai bên đồng ý, tôi với anh Đ tổ chức lễ cưới vào năm 2017, chúng tôi đăng ký kết hôn tại UBND xã Châu Phong, thị xã Tân Châu, tỉnh An Giang theo giấy chứng nhận kết hôn số: 59/2017, ngày 19/4/2017. Sau khi cưới nhau vợ chồng sống hạnh phúc đến tháng 10/2017 thì xảy ra nhiều mâu thuẫn, nguyên nhân là do bất đồng quan điểm sống, tính tình không phù hợp, nảy sinh nhiều mâu thuẫn, vợ chồng không còn hạnh phúc như trước. Tôi với anh Đ đã không còn sống chung từ 03 năm nay. Tình cảm của tôi đối với anh Đ không còn, yêu cầu ly hôn với anh Đ.

- Về con chung: Trong thời kỳ hôn nhân, tôi và anh Đ có 01 con chung tên Võ Thị Như Y, sinh ngày 27/8/2017, hiện con đang sống với tôi, khi ly hôn tôi yêu cầu được tiếp tục nuôi dưỡng và tôi không yêu cầu anh Đ cấp dưỡng nuôi con.

- Về tài sản chung, nợ chung: Tôi với anh Đ không có tài sản và nợ chung, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Bị đơn anh Võ Văn Đ đã được Tòa án tống đạt các văn bản hợp lệ nhưng vẫn vắng mặt không lý do;

Biên bản xác minh ngày 06/4/2021 của bà Nguyễn Thị T là Chi hội trưởng Chi Hội phụ nữ ấp vĩnh Lợi 2, xã Châu Phong cung cấp về tình trạng hôn nhân của chị N với anh Đ thể hiện: Chị N với anh Đ cưới nhau vào năm 2017, hai người đi đăng ký kết hôn vào năm 2017 tại UBND xã Châu Phong. Về tình cảm hai người đã xảy ra mâu thuẫn từ cuối năm 2017 đến nay, nguyên nhân thường cãi vả, bất đồng quan điểm sống.

Biên bản xác minh ngày 04/3/2021 của bà Trần Thị M là mẹ ruột anh Đ cung cấp thông tin: Sau khi cưới nhau thì chị N với anh Đ lên tỉnh Bình Dương làm công nhân, cho đến khi chị N có bầu thì chị N về nhà cha, mẹ đẻ chi N sinh sống cho đến khi chị N sinh con được hai tháng thì giữa N với Đ xảy ra mâu thuẫn và hai người sống ly thân từ tháng 10 năm 2017 cho đến nay, bà M có nghe anh Đ nói N muốn thôi thì anh Đ đồng ý.

Biên bản xác minh ngày 04/3/2021 Công an xã Châu Phong cung cấp: Anh Võ Văn Đ, sinh năm 1989 có hộ khẩu thường trú chung với người cha là ông Võ Văn H tại tổ 15, ấp Vĩnh Lợi 1, xã Châu Phong, thị xã Tân Châu, tỉnh An Giang, anh Đ vẫn còn hộ khẩu tại địa chỉ trên, Tết Nguyên đán năm 2021 anh Đ có về địa phương.

Toà án tiến hành lập biên bản kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và biên bản hòa giải nhưng không thực hiện được do anh Đ vắng mặt.

Hội đồng xét xử công bố biên bản xác minh ngày 06/4/2021 của Chi hội trưởng Chi Hội phụ nữ, ấp Vĩnh lợi 1, xã Châu Phong, biên bản xác minh ngày 04/3/2021 của bà Trần Thị M, biên bản xác minh của Công an xã Châu Phong ngày 04/3/2021, biên bản không lấy được lời khai của anh Đ.

Tại phiên tòa, chị N giữ nguyên yêu cầu, anh Đ vắng mặt, Chị N xác định đã cung cấp đầy đủ chứng cứ cho Tòa án, không còn cung cấp thêm chứng cứ nào khác; anh Đ không cung cấp chứng cứ.

- Ý kiến của Kiểm sát viên:

Việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký trong thời gian chuẩn bị xét xử. Thẩm phán được phân công thụ lý giải quyết vụ án thực hiện đúng, đầy đủ quy định Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015.

Việc tuân thủ pháp luật của Hội đồng xét xử, Thư ký Tòa án tại phiên tòa đã tuân theo đúng các quy định của Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015 về việc xét xử sơ thẩm vụ án.

Người tham gia tố tụng đã thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ tố tụng của họ theo quy định của pháp luật.

Ý kiến về giải quyết vụ án, chị Lê Thị Tuyết N và anh Võ Văn Đ có đăng ký kết hôn. Thời gian đầu chung sống hạnh phúc, năm 2017 giữa chị N với anh Đ có phát sinh mâu thuẫn. Chị N với anh Đ đã không còn sống chung thời gian dài. Căn cứ Điều 51, 56 Luật Hôn nhân và gia đình, đề nghị chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị N.

Về con chung: Trong thời kỳ hôn nhân, chị Nương với anh Điền có 01 con chung tên Võ Thị Như Y, sinh ngày 27/8/2017, hiện con đang sống với chị N, đề nghị giao con cho chị N nuôi dưỡng.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:

Về tố tụng:

[1] Thẩm quyền: Chị Lê Thị Tuyết N khởi kiện “Tranh chấp hôn nhân và gia đình, ly hôn, nuôi con chung” với anh Anh Võ Văn Đ, sinh năm 1989; địa chỉ cư trú: Số 462, tổ 15, ấp Vĩnh Lợi 2, xã Châu Phong, thị xã Tân Châu, tỉnh An Giang. Xét, quan hệ tranh chấp thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thị xã Tân Châu theo quy định tại khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015; nguyên đơn đã nộp tạm ứng án phí và Tòa án thụ lý giải quyết.

Biên bản xác minh ngày 04/3/2021 Công an xã Châu Phong cung cấp: Anh Võ Văn Đ, sinh năm 1989 có hộ khẩu thường trú chung với người cha là ông Võ Văn H tại tổ 15, ấp Vĩnh Lợi 1, xã Châu Phong, thị xã Tân Châu, tỉnh An Giang, anh Đ vẫn còn hộ khẩu tại địa chỉ trên, Tết Nguyên đán năm 2021 anh Đ có về địa phương.

Sự vắng mặt của đương sự: Anh Võ Văn Đ vắng mặt, đã được Tòa án triệu tập hợp lệ. Căn cứ khoản 2 Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, Tòa án tiến hành xét xử.

Về nội dung:

[2] Về quan hệ hôn nhân: Chị Lê Thị Tuyết N với anh Võ Văn Đ kết hôn trên cơ sở tự nguyện, đã đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Châu Phong, thị xã Tân Châu, tỉnh An Giang theo Giấy chứng nhận kết hôn số 59/2017, ngày 19/4/2017. Xét, hôn nhân giữa chị N và anh Đ là hợp pháp.

Chị N khai, quá trình chung sống chị N và anh Đ phát sinh mẫu thuẫn, nguyên nhân là do bất đồng quan điểm sống, tính tình không phù hợp, nảy sinh nhiều mâu thuẫn, vợ chồng không còn hạnh phúc như trước. Chị N với anh Đ đã không còn sống chung từ 03 năm nay. Tình cảm của chị N đối với anh Đ không còn, yêu cầu ly hôn với anh Đ.

Biên bản xác minh ngày 06/4/2021 của bà Nguyễn Thị T là Chi hội trưởng Chi Hội phụ nữ ấp vĩnh Lợi 2, xã Châu Phong cung cấp về tình trạng hôn nhân của chị N với anh Đ thể hiện: Chị N với anh Đ cưới nhau vào năm 2017, hai người đi đăng ký kết hôn vào năm 2017 tại UBND xã Châu Phong. Về tình cảm hai người đã xảy ra mâu thuẫn từ cuối năm 2017 đến nay, nguyên nhân thường cãi vả, bất đồng quan điểm sống.

Biên bản xác minh ngày 04/3/2021 của bà Trần Thị M là mẹ ruột anh Đ cung cấp thông tin: Sau khi cưới nhau thì chị N với anh Đ lên tỉnh Bình Dương làm công nhân, cho đến khi chị N có bầu thì chị N về nhà cha, mẹ đẻ chi N sinh sống cho đến khi chị N sinh con được hai tháng thì giữa N với Đ xảy ra mâu thuẫn và hai người sống ly thân từ tháng 10 năm 2017 cho đến nay, bà M có nghe anh Đ nói Nương muốn thôi thì anh Đ đồng ý.

Theo khoản 2 Điều 17, Điều 19 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014, “Vợ chồng có nghĩa vụ sống chung với nhau, trừ trường hợp vợ chồng có thỏa thuận khác hoặc do yêu cầu của nghề nghiệp,… và lý do chính đáng khác”;

“Vợ chồng phải có nghĩa vụ thương yêu, chung thủy, tôn trọng, quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ nhau; cùng nhau chia sẻ, thực hiện các công việc trong gia đình; vợ chồng có nghĩa vụ sống chung với nhau”.

Chị N với anh Đ có thời gian dài không sống chung, hai người không tự hàn gắn lại được, vi phạm nghiêm trọng quyền, nghĩa vụ của vợ, chồng làm cho hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được.

Giữa chị N với anh Đ đã sống xa cách nhau từ năm 2017 đến nay.

Căn cứ Diều 51, khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014, xét, chấp nhận yêu cầu của chị N ly hôn đối với anh Đ.

[3] Về con chung: Chị N với anh Đ, trong thời kỳ hôn nhân hai người có 01 con chung tên Võ Thị Như Y, sinh ngày 27/8/2017, hiện con đang sống với chị N, khi ly hôn chị N yêu cầu được tiếp tục nuôi dưỡng và không yêu cầu anh Đ cấp dưỡng nuôi con.

Xét, giao cháu Võ Thị Như Y, sinh ngày 27/8/2017, cho chị N nuôi dưỡng cho đến khi cháu thành niên và có khả năng lao động. Anh Đ không phải cấp dưỡng nuôi con.

Chị N cùng các thành viên gia đình (nếu có) không được cản trở anh Đ trong việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con.

Vì lợi ích của con, theo yêu cầu của người thân thích của con, cơ quan có thẩm quyền, Toà án có thể quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con, buộc cấp dưỡng nuôi con chung dựa trên các căn cứ do pháp luật quy định.

Theo quy định tại Điều 81, Điều 82, Điều 83, Điều 84 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014.

[4] Về tài sản chung, nợ chung: Chị N khai giữa chị với anh Đ không có tài sản và nợ chung nên không yêu cầu Tòa án giải quyết. Do đó, không đặt ra giải quyết. Nếu sau này anh Đ cho rằng trong thời kỳ hôn nhân giữa anh Đ với chị N có tài sản, nợ chung thì anh Đ vẫn có quyền khởi kiện ra tòa yêu cầu giải quyết trong vụ án khác.

[5] Về án phí: Chị Lê Thị Tuyết N phải chịu 300.000 đồng tiền án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm, chị N được chuyển từ tiền tạm ứng án phí sang theo biên lai thu số TU/2019/0006485 ngày 17/11/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự thị xã Tân Châu;

Anh Võ Văn Đ không phải chịu tiền án phí hôn nhân.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng Điều 51, khoản 1 Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83, Điều 84 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014; khoản 1 Điều 28, Điều 35, khoản 2 Điều 227, Điều 228, Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án;

Xử: Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của chị Lê Thị Tuyết N.

Về hôn nhân: Chị Lê Thị Tuyết N được ly hôn với anh Võ Văn Đ;

Giấy chứng nhận kết hôn số 59/2017, ngày 19/4/2017 do UBND xã Châu Phong, thị xã Tân Châu, tỉnh An Giang cấp cho chị Lê Thị Tuyết N với anh Võ Văn Đ không còn giá trị pháp luật.

Về con chung: Giao cháu Võ Thị Như Y, sinh ngày 27/8/2017 cho chị Lê Thị Tuyết N nuôi dưỡng. Anh Võ Văn Đ không phải cấp dưỡng nuôi con.

Chị Lê Thị Tuyết N cùng gia đình (nếu có) không được cản trở anh Võ Văn Đ trong việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục các con.

Vì lợi ích của con, theo yêu cầu của người thân thích của con, cơ quan có thẩm quyền, Toà án có thể quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con, buộc cấp dưỡng nuôi con chung dựa trên các căn cứ do pháp luật quy định.

Về tài sản chung, nợ chung: Không đặt ra giải quyết. Nếu sau này anh Võ Văn Đ cho rằng trong thời kỳ hôn nhân giữa anh Đ với chị N có tài sản, nợ chung thì anh Đ vẫn có quyền khởi kiện chị N ra tòa yêu cầu giải quyết trong vụ án khác Về án phí: Chị Lê Thị Tuyết N phải chịu 300.000 đồng tiền án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm, chị N được chuyển từ tiền tạm ứng án phí sang theo biên lai thu số TU/2019/0006485 ngày 17/11/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự thị xã Tân Châu;

Anh Võ Văn Đ không phải chịu tiền án phí hôn nhân.

Trong hạn 15 ngày kể từ ngày kể từ ngày tuyên án chị Lê Thị Tuyết N có quyền kháng cáo để yêu cầu Toà án nhân dân tỉnh An Giang xét xử phúc thẩm.

Thời gian kháng cáo của anh Võ Văn Đ là 15 ngày kể từ ngày bản án được tống đạt hoặc niêm yết hợp lệ.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

301
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp hôn nhân và gia đình, ly hôn, nuôi con chung số 67/2021/HNGĐ-ST

Số hiệu:67/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Tân Châu - An Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 16/09/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về