Bản án về tranh chấp hôn nhân và gia đình, ly hôn, nuôi con chung số 64/2021/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ TÂN CHÂU, TỈNH AN GIANG

 BẢN ÁN 64/2021/HNGĐ-ST NGÀY 16/09/2021 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH, LY HÔN, NUÔI CON CHUNG

Ngày 16 tháng 9 năm 2021, tại trụ sở Toà án nhân dân thị xã Tân Châu xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân và gia đình thụ lý số: 41/2021/TLST- HNGĐ ngày 03/02/2021 về việc “Tranh chấp hôn nhân và gia đình, ly hôn, nuôi con chung” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 96/2021/QĐXXST-HNGĐ ngày 01 tháng 6 năm 2021 và quyết định hoãn phiên tòa số 91/2021/QĐST- HNGĐ ngày 23/6/2021, thông báo mở lại phiên tòa số 174/TB-TA ngày 30/8/2021 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Anh Dương Hải Đ, sinh năm 1979; địa chỉ cư trú: Tổ 12, ấp Bình Nghĩa, thị trấn Cái Dầu, huyện Châu Phú, tỉnh An Giang; có đơn xin vắng mặt ngày 19/8/2021

- Bị đơn: Chị Dương Thị O, sinh năm 1983; địa chỉ cư trú: Tổ 01, khóm Long Châu, phường Long Châu, thị xã Tân Châu, tỉnh An Giang; vắng mặt

NỘI DUNG VỤ ÁN

- Theo đơn khởi kiện, bản tự khai ngày 26/01/2021, các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa, anh Dương Hải Đ trình bày:

Về hôn nhân giữa tôi với cô Dương Thị O do quen biết nhau, cha mẹ hai bên đồng ý, tôi với cô O tổ chức lễ cưới vào năm 2006, chúng tôi đăng ký kết hôn tại UBND thị trấn Cái Dầu, huyện Châu Phú, tỉnh An Giang theo giấy chứng nhận kết hôn số:

114, quyển số 0I/2006, ngày 28/6/2006. Sau khi cưới nhau vợ chồng sống hạnh phúc đến năm 2013 thì xảy ra nhiều mâu thuẫn, nguyên nhân là do bất đồng quan điểm sống, tính tình không phù hợp, nảy sinh nhiều mâu thuẫn, vợ chồng không còn hạnh phúc như trước. Anh Đ với chị O đã không còn sống chung từ năm 2013 đến nay. Tình cảm của anh Đ đối với chị O không còn, yêu cầu ly hôn với cô O.

- Về con chung: Trong thời kỳ hôn nhân, anh Đ và chị O có với nhau một đứa con tên Dương Quốc T sinh ngày 08/12/2005, hiện cháu Toàn đang sống với anh Đ. Khi ly hôn, anh Đ yêu cầu được nuôi con và không yêu cầu chị O cấp dưỡng nuôi con.

- Về tài sản chung, nợ chung: Anh Đ với chị O không có tài sản và nợ chung, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Bị đơn chị Dương Thị O đã được Tòa án tống đạt các văn bản hợp lệ nhưng vẫn vắng mặt không lý do;

Biên bản xác minh ngày 31/5/2021 của bà Trần Thị Kim L là Chi hội trưởng Chi Hội phụ nữ khóm Long Châu, phường Long Châu cung cấp về tình trạng hôn nhân của anh Đ với chị O thể hiện:

Anh Đ với chị O cưới nhau có đăng ký kết hôn ở địa phương, hai người không sinh sống ở địa phương mà đi làm ở Thành Phố Hồ Chí Minh, thông qua gia đình được biết vợ chồng anh Đ với chị O không còn sống chung 08 năm nay.

Biên bản xác minh ngày 31/5/2021 của bà Nguyễn Thị Lệ T là mẹ ruột chị O cung cấp thông tin:

Anh Đ và chị O cưới nhau vào năm 2004, có đăng ký kết hôn, Sau khi cưới nhau vợ chồng sống chung một thời gian thì bà nghe chị O nói vợ chồng sống không hợp nhau và hai vợ chồng O, Đ đã không còn sống chung 08 năm nay. Chị O với anh Đ có một đứa con tên Dương Quốc T, sinh năm 2005 đang sống với anh Đ.

Biên bản xác minh ngày 31/5/2021 Công an phường Long Châu cung cấp:

Chị Dương Thị O, sinh năm 1983 có hộ khẩu thường trú tại tổ 01, khóm Long Châu, phường Long Châu, thị xã Tân Châu, tỉnh An Giang, chị O vẫn còn hộ khẩu tại địa chỉ trên, chị O có về địa phương.

Toà án tiến hành lập biên bản kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và biên bản hòa giải nhưng không thực hiện được do chị O vắng mặt.

Hội đồng xét xử công bố biên bản xác minh ngày 31/5/2021 của Chi hội trưởng Chi Hội phụ nữ, khóm Long Châu, phường Long Châu, biên bản xác minh ngày 31/5/2021 của bà Nguyễn Thị Lệ T, biên bản xác minh của Công an phường Long Châu ngày 31/5/2021, biên bản không lấy được lời khai của chị O.

Tại phiên tòa, anh Đ với chị O vắng mặt,

- Ý kiến của Kiểm sát viên:

Việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký trong thời gian chuẩn bị xét xử. Thẩm phán được phân công thụ lý giải quyết vụ án thực hiện đúng, đầy đủ quy định Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015.

Việc tuân thủ pháp luật của Hội đồng xét xử, Thư ký Tòa án tại phiên tòa đã tuân theo đúng các quy định của Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015 về việc xét xử sơ thẩm vụ án.

Người tham gia tố tụng đã thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ tố tụng của họ theo quy định của pháp luật.

Ý kiến về giải quyết vụ án, anh Dương Hải Đ và chị Dương Thị O có đăng ký kết hôn. Thời gian đầu chung sống hạnh phúc, năm 2013 giữa anh Đ với chị O có phát sinh mâu thuẫn. Anh Đ với chị O đã không còn sống chung thời gian dài. Căn cứ Điều 51, Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình, đề nghị chấp nhận yêu cầu khởi kiện của anh Đ.

Về con chung: Trong thời kỳ hôn nhân, anh Đ với chị O có 01 con chung tên Dương Quốc T, sinh ngày 08/12/2005, hiện con đang sống với anh Đ, đề nghị giao con cho anh Đ nuôi dưỡng.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:

Về tố tụng:

[1] Thẩm quyền: Anh Dương Hải Đ khởi kiện “Tranh chấp hôn nhân và gia đình, ly hôn, nuôi con chung” với chị Dương Thị O, sinh năm 1983; địa chỉ cư trú: Tổ 01, khóm Long Châu, phường Long Châu, thị xã Tân Châu, tỉnh An Giang. Xét, quan hệ tranh chấp thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thị xã Tân Châu theo quy định tại khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015; nguyên đơn đã nộp tạm ứng án phí và Tòa án thụ lý giải quyết.

Biên bản xác minh ngày 31/5/2021 Công an phường Long Châu cung cấp: Chị Dương Thị O, sinh năm 1983 có hộ khẩu thường trú tại tổ 01, khóm Long Châu, phường Long Châu, thị xã Tân Châu, tỉnh An Giang, chị O vẫn còn hộ khẩu tại địa chỉ trên, chị O có về địa phương.

Sự vắng mặt của đương sự: Anh Dương Hải Đ có đơn xin vắng mặt, chị Dương Thị O vắng mặt, đã được Tòa án triệu tập hợp lệ. Căn cứ khoản 2 Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, Tòa án tiến hành xét xử.

Về nội dung:

[2] Về quan hệ hôn nhân: Anh Dương Hải Đ với chị Dương Thị O kết hôn trên cơ sở tự nguyện, đã đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân thị trấn Cái Dầu, huyện Châu Phú, tỉnh An Giang theo Giấy chứng nhận kết hôn số 114, quyển 01/2006, ngày 28/6/2006. Xét, hôn nhân giữa anh Đ với chị O là hợp pháp.

Anh Đ khai, quá trình chung sống anh Đ với chị O phát sinh mẫu thuẫn, nguyên nhân là do bất đồng quan điểm sống, tính tình không phù hợp, nảy sinh nhiều mâu thuẫn, vợ chồng không còn hạnh phúc như trước. Anh Đ với chị O đã không còn sống chung từ năm 2013 đến nay. Tình cảm của anh Đ đối với chị O không còn, yêu cầu ly hôn với chị O.

Biên bản xác minh ngày 31/5/2021 của bà Trần Thị Kim L là Chi hội trưởng Chi Hội phụ nữ khóm Long Châu, phường Long Châu cung cấp về tình trạng hôn nhân của anh Đ với chị O thể hiện: Anh Đ với chị O cưới nhau có đăng ký kết hôn ở địa phương, hai người không sinh sống ở địa phương mà đi làm ở Thành Phố Hồ Chí Minh, thông qua gia đình được biết vợ chồng anh Đ với chị O không còn sống chung 08 năm nay.

Biên bản xác minh ngày 31/5/2021 của bà Nguyễn Thị Lệ T là mẹ ruột chị O cung cấp thông tin: Anh Đ và chị O cưới nhau vào năm 2004, có đăng ký kết hôn, Sau khi cưới nhau vợ chồng sống chung một thời gian thì bà nghe chị O nói vợ chồng sống không hợp nhau và hai vợ chồng O, Đ đã không còn sống chung 08 năm nay. Chị O với anh Đ có một đứa con tên Dương Quốc T, sinh năm 2005 đang sống với anh Đ.

Theo khoản 2 Điều 17, Điều 19 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014, “Vợ chồng có nghĩa vụ sống chung với nhau, trừ trường hợp vợ chồng có thỏa thuận khác hoặc do yêu cầu của nghề nghiệp,… và lý do chính đáng khác”;

“Vợ chồng phải có nghĩa vụ thương yêu, chung thủy, tôn trọng, quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ nhau; cùng nhau chia sẻ, thực hiện các công việc trong gia đình; vợ chồng có nghĩa vụ sống chung với nhau”.

Anh Đ với chị O có thời gian dài không sống chung, hai người không tự hàn gắn lại được, vi phạm nghiêm trọng quyền, nghĩa vụ của vợ, chồng làm cho hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được.

Giữa anh Đ với chị O đã sống xa cách nhau từ năm 2013 đến nay.

Căn cứ Điều 51, khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014, xét, chấp nhận yêu cầu của anh Đ ly hôn đối với chị O.

[3] Về con chung: Anh Đ với chị O, trong thời kỳ hôn nhân hai người có 01 con chung tên Dương Quốc T sinh ngày 08/12/2005, hiện cháu T đang sống với anh Đ. Khi ly hôn, anh Đ yêu cầu được nuôi con và không yêu cầu chị O cấp dưỡng nuôi con. Nguyện vọng cháu T muốn được sống với anh Đ.

Xét, giao Dương Quốc T, sinh ngày 08/12/2005, cho anh Đ nuôi dưỡng cho đến khi cháu thành niên và có khả năng lao động. Chị O không phải cấp dưỡng nuôi con.

Anh Đ cùng các thành viên gia đình (nếu có) không được cản trở chị O trong việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con.

Vì lợi ích của con, theo yêu cầu của người thân thích của con, cơ quan có thẩm quyền, Toà án có thể quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con, buộc cấp dưỡng nuôi con chung dựa trên các căn cứ do pháp luật quy định.

Theo quy định tại Điều 81, Điều 82, Điều 83, Điều 84 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014.

[4] Về tài sản chung, nợ chung: Anh Đ khai giữa anh với chị O không có tài sản và nợ chung nên không yêu cầu Tòa án giải quyết. Do đó, không đặt ra giải quyết. Nếu sau này chị O cho rằng trong thời kỳ hôn nhân giữa chị O với anh Đ có tài sản, nợ chung thì chị O vẫn có quyền khởi kiện ra tòa yêu cầu giải quyết trong vụ án khác.

[5] Về án phí: Anh Dương Hải Đ phải chịu 300.000 đồng tiền án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm, anh Đ được chuyển từ tiền tạm ứng án phí sang theo biên lai thu số TU/2019/0006609 ngày 03/02/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự thị xã Tân Châu;

Chị Dương Thị O không phải chịu tiền án phí hôn nhân.

Vì các lẽ trên,

 QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng Điều 51 khoản 1 Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83, Điều 84 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014; khoản 1 Điều 28, Điều 35, khoản 2 Điều 227, Điều 228, Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án;

Xử: Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của anh Dương Hải Đ.

Về hôn nhân: Anh Dương Hải Đ được ly hôn với chị Dương Thị O;

Giấy chứng nhận kết hôn số 114, quyển 01/2006, ngày 28/6/2006 do UBND thị trấn Cái Dầu, huyện Châu Phú, tỉnh An Giang cấp cho anh Dương Hải Đ với chị Dương Thị O không còn giá trị pháp luật.

Về con chung: Giao cháu Dương Quốc T sinh ngày 08/12/2005 cho anh Dương Hải Đ nuôi dưỡng. Chị Dương Thị O không phải cấp dưỡng nuôi con.

Anh Dương Hải Đ cùng gia đình (nếu có) không được cản trở chị Dương Thị O trong việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục các con.

Vì lợi ích của con, theo yêu cầu của người thân thích của con, cơ quan có thẩm quyền, Toà án có thể quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con, buộc cấp dưỡng nuôi con chung dựa trên các căn cứ do pháp luật quy định.

Về tài sản chung, nợ chung: Không đặt ra giải quyết. Nếu sau này chị Dương Thị O cho rằng trong thời kỳ hôn nhân giữa chị với anh Đ có tài sản, nợ chung thì chị O vẫn có quyền khởi kiện anh Đ ra tòa yêu cầu giải quyết trong vụ án khác Về án phí: Anh Dương Hải Đ phải chịu 300.000 đồng tiền án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm, anh Đ được chuyển từ tiền tạm ứng án phí sang theo biên lai thu số TU/2019/0006609 ngày 03/02/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự thị xã Tân Châu;

Chị Dương Thị O không phải chịu tiền án phí hôn nhân.

Trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết, các đương sự có quyền kháng cáo để yêu cầu Toà án nhân dân tỉnh An Giang xét xử phúc thẩm.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

230
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp hôn nhân và gia đình, ly hôn, nuôi con chung số 64/2021/HNGĐ-ST

Số hiệu:64/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Tân Châu - An Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 16/09/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về