Bản án về tranh chấp hôn nhân gia đình số 66/2021/HNGĐ-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN S,TỈNH TUYÊN QUANG

 BẢN ÁN 66/2021/HNGĐ-ST NGÀY 27/08/2021 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN GIA ĐÌNH GIỮA CHỊ NGUYỄN THỊ H VÀ ANH PHẠM VĂN M

Ngày 27/8/2021, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện S, tỉnh Tuyên Quang, mở phiên toà xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 329/2021/TLST-HNGĐ, ngày 04 tháng 6 năm 2021 về Tranh chấp hôn nhân và gia đình, theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 71/2021/QĐXXST-HNGĐ ngày 27/7/2021 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị H, sinh năm 2000. Địa chỉ: Khu 1, xã Hoàng Hoa, huyện Tam Dương, tỉnh Vĩnh Phúc.

- Bị đơn: Anh Phạm Văn M, sinh năm 1996. Địa chỉ: Thôn C, xã T, huyện S, tỉnh Tuyên Quang.

Chị H và anh M đều vắng mặt tại phiên toà (Có đơn xin xét xử vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện ngày 28/5/2021 và quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn chị Nguyễn Thị H trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Chị (Nguyễn Thị H) và anh Phạm Văn M kết hôn với nhau vào ngày 25/5/2018, đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã T1 (nay là xã T), huyện S, tỉnh Tuyên Quang, trên cơ sở hai bên đều tự nguyện, tự do tìm hiểu và được hai bên gia đình tổ chức cưới hỏi theo phong tục địa phương. Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống cùng nhau ở thôn C, xã T1 (nay là xã T), huyện S. Thời gian đầu vợ chồng chung sống hạnh phúc, đến năm 2020 thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân là do tính tình không hợp, bất đồng quan điểm trong cuộc sống sinh hoạt. Anh chị đã ly thân từ tháng 4 năm 2020 đến nay, vợ chồng không còn yêu thương, quý trọng nhau. Nay xét thấy tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được nên chị yêu cầu được ly hôn với anh Phạm Văn M.

Về con chung: Chị và anh Phạm Văn M có một con chung là cháu Phạm Gia B, sinh ngày 07/01/2019. Sau khi ly hôn chị đề nghị được trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục cháu B và không yêu cầu anh M cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung, vay nợ chung: Chị xác định chị và anh Phạm Văn M không có tài sản và vay nợ chung, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại bản tự khai ngày 17/5/2020, bị đơn anh Phạm Văn M trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Anh (Phạm Văn M) và chị Nguyễn Thị H kết hôn với nhau khoảng tháng 4 năm 2018 (âm lịch). Vợ chồng có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã T1 (nay là xã T), huyện S, tỉnh Tuyên Quang, trên cơ sở hai bên đều tự nguyện, tự do tìm hiểu và được hai bên gia đình tổ chức cưới hỏi theo phong tục địa phương. Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống cùng nhau ở thôn C, xã T1 (nay là xã T), huyện S. Thời gian đầu cuộc sống vợ chồng hạnh phúc sau đó thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân là do bất đồng trong cuộc sống sinh hoạt, đến tháng 12 năm 2019 thì chị H đã tự ý bỏ về nhà bố me đẻ để ở, cho đến nay vợ chồng không còn liên hệ gì với nhau nữa. Mặc dù anh vẫn có nguyện vọng vợ chồng quay lại với nhau, nhưng chị H đã yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn thì anh cũng nhất trí ly hôn với chị H.

Về con chung: Anh và chị Nguyễn Thị H có một con chung là cháu Phạm Gia B, sinh ngày 07/01/2019. Sau khi ly hôn, anh nhất trí giao cháu B cho chị H trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục. Về cấp dưỡng nuôi con, anh đề nghị được tự thoả thuận với chị H, không đề nghị Tòa án giải quyết.

Về tài sản chung, vay nợ chung: Anh xác định anh và chị Nguyễn Thị H không có tài sản và vay nợ chung, không đề nghị Tòa án giải quyết.

Quá trình giải quyết vụ án, anh M đề nghị giải quyết, xét xử vắng mặt anh, còn chị H đề nghị Toà án không tiến hành hoà giải nên Tòa án không tiến hành hòa giải được.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và của người tham gia tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án đều đảm bảo đúng quy định.

Về việc giải quyết vụ án, đại diện Viện kiểm sát đề nghị áp dụng các Điều 28, 147, 228, 235, 238, 266, 271, 273 Bộ luật tố tụng dân sự; Điều 56, 81, 82, 83 Luật hôn nhân và gia đình; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án:

- Xử cho chị Nguyễn Thị H ly hôn với anh Phạm Văn M.

- Giao cháu Phạm Gia B, sinh ngày 07/01/2019 cho chị Nguyễn Thị H trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục. Việc cấp dưỡng nuôi con do các bên không yêu cầu nên không xem xét.

- Chị Nguyễn Thị H phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về quan hệ hôn nhân: Chị Nguyễn Thị H và anh Phạm Văn M kết hôn với nhau trên cơ sở tự nguyện, tự do tìm hiểu, được hai bên gia đình tổ chức lễ cưới và có đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật, là hôn nhân hợp pháp. Trong thời gian chung sống, anh chị phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do bất đồng quan điểm trong cuộc sống sinh hoạt, vợ chồng không còn tình cảm với nhau, hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, ly thân đã lâu. Chị H kiên quyết xin ly hôn, còn anh M cũng nhất trí ly hôn với chị H. Kết quả xác minh tại địa phương cũng thể hiện cuộc sống vợ chồng của chị H, anh M có nhiều mâu thuẫn trong cuộc sống sinh hoạt.

Như vậy, mâu thuẫn giữa chị H và anh M là thực tế và đã trầm trọng, ly thân đã lâu, không còn quan tâm đến nhau và cả hai đã không có biện pháp để cải thiện quan hệ vợ chồng, thực tế cuộc sống chung của vợ chồng đã không tồn tại, mục đích hôn nhân không đạt được nên không thể duy trì và xây dựng một gia đình hạnh phúc. Do vậy Hội đồng xét xử cần chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Nguyễn Thị H là xử cho chị Nguyễn Thị H ly hôn với anh Phạm Văn M.

[2] Về con chung: Chị Nguyễn Thị H và anh Phạm Văn M có một con chung là cháu Phạm Gia B, sinh ngày 07/01/2019. Chị H đề nghị được trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung sau khi ly hôn, anh M nhất trí với ý kiến của chị H nên Hội đồng xét xử giao cháu Phạm Gia B cho chị Nguyễn Thị H trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục. Về cấp dưỡng nuôi con, các đương sự không đề nghị giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[3] Về tài sản chung, nợ chung: Chị Nguyễn Thị H và anh Phạm Văn M xác định vợ chồng không có tài sản và vay nợ chung, không yêu cầu giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[4] Về án phí và quyền kháng cáo: Chị Nguyễn Thị H phải nộp án phí dân sự sơ thẩm. Các đương sự có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào các Điều 28, 147, 228, 235, 238, 266, 271, 273 Bộ luật tố tụng dân sự; Điều 56, 81, 82, 83 Luật hôn nhân và gia đình; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1. Về quan hệ hôn nhân: Xử cho chị Nguyễn Thị H ly hôn với anh Phạm Văn M.

2. Về con chung: Giao cháu Phạm Gia B, sinh ngày 07/01/2019 cho chị Nguyễn Thị H trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục. Anh Phạm Văn M được quyền đi lại thăm con chung, không ai được cản trở.

3. Về án phí: Chị Nguyễn Thị H phải nộp 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm, nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) theo biên lai số 0003872 ngày 04/6/2021 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện S, tỉnh Tuyên Quang. Anh Phạm Văn M không phải nộp án phí Các đương sự được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 (Mười lăm) ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết công khai./

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

225
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp hôn nhân gia đình số 66/2021/HNGĐ-ST

Số hiệu:66/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Sơn Dương - Tuyên Quang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 27/08/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về