Bản án về tranh chấp hôn nhân gia đình số 65/2021/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN NGHI XUÂN, TỈNH HÀ TĨNH

BẢN ÁN 65/2021/HNGĐ-ST NGÀY 09/07/2021 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN GIA ĐÌNH

Vào hồi 7 giờ 30 phút, ngày 09 tháng 7 năm 2021 tại Hội trường xét xử Tòa án nhân dân huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh, xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 40/2021/TLST-HNGĐ ngày 23 tháng 02 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 06/2021/QĐXX-ST ngày 27 tháng 5 năm 2021, Thông báo mở lại phiên tòa số: 01/2021/QĐST-HNGĐ ngày 24 tháng 6 năm 2021 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Trương Thị Ly N – Sinh năm 1983 “Có đơn xin xét xử vắng mặt”

- Bị đơn: Anh Nguyễn Đình Th – Sinh năm 1981 “Vắng mặt”

Các đương sự cùng địa chỉ: TDP A, thị trấn Xuân An, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện xin ly hôn, bản tự khai của người xin ly hôn cũng như tại phiên tòa, nguyên đơn chị Trương Thị Ly N trình bày:

- Về quan hệ hôn nhân: Chị Trương Thị Ly N và anh Nguyễn Đình Th tự nguyện đăng ký hết hôn với nhau ngày 25/12/2006 tại Ủy ban nhân dân thị trấn Xuân An, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh. Sau khi kết hôn hai vợ chồng sống chung với nhau được 10 năm thì xảy ra mâu thuẫn, nguyên nhân mâu thuẫn do tính tình không hợp, vợ chồng hay cãi cọ nhau nên năm 2019 cho đến nay vợ chồng đã sống ly thân. Sau khi ly thân, vợ chồng không còn thăm hỏi, quan tâm đến đời sống riêng của nhau. Nay chị N thấy tình cảm vợ chồng không còn nên xin được ly hôn với anh Nguyễn Đình Th.

- Về con chung: Vợ chồng có 01 con chung: Nguyễn Đình B – sinh ngày 04/4/2015. Nguyện vọng của nguyên đơn được nuôi cháu Nguyễn Đình B và không yêu cầu bị đơn cấp dưỡng tiền nuôi con chung.

- Về tài sản và nợ chung: Không có và không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải lần thứ nhất ngày 01/3/2021 bị đơn có bản tự khai tại tòa án thể hiện:

Về quan hệ hôn nhân: Bị đơn đồng ý về thời gian kết hôn và chung sống và mâu thuẫn như nguyên đơn trình bày, nhưng bị đơn mong muốn vợ chồng tiếp tục chung sống để xây dựng gia đình, nên không đồng ý ly hôn.

Về con chung: Bị đơn có nguyện vọng nuôi cháu Nguyễn Đình B và không yêu cầu nguyên đơn cấp dưỡng nuôi con chung.

Về tài sản và nợ chung: Không yêu cầu tòa án giải quyết.

Quá trình giải quyết vụ án: Sau khi thụ lý vụ án, Tòa án nhân dân huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh đã tiến hành giao nhận trực tiếp Thông báo thụ lý, Thông báo phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải lần 1cho bị đơn, tại phiên hòa giải lần thứ nhất bị đơn có mặt, tuy nhiên tại phiên hòa giải lần 2 và 02 phiên tòa xét xử bị đơn đều vắng mặt không có lý do.

Tại phiên tòa các đương sự đều vắng mặt, HĐXX tiến hành xem xét, đánh giá các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và tiến hành giải quyết vụ án theo thủ tục chung.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Nghi Xuân tham gia phiên tòa đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng: khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, Điều 48, khoản 4 Điều 147, khoản 1, 3 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự; Điều 51, khoản 1 Điều 56, Điều 57, 58, 81, 82, 83, 84 Luật hôn nhân và gia đình xử cho các đương sự được ly hôn, giao cháu Nguyễn Đình B – sinh ngày 04/4/2015 cho chị Trương Thị Ly N nuôi dưỡng đến đủ 18 tuổi, tạm thời anh Nguyễn Đình Th không phải góp tiền cấp dưỡng tiền nuôi con chung cho chị Na.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1]. Về thẩm quyền xét xử: Căn cứ khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự thì yêu cầu ly hôn của chị Trương Thị Ly N thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh.

Tại phiên tòa hôm nay, các đương sự đều vắng mặt, nguyên đơn có đơn xin xét xử vắng mặt, bị đơn đã nhận được Thông báo hợp lệ, tuy nhiên vắng mặt tại phiên tòa không lý do. Hội đồng xét xử tiến hành phiên tòa vắng mặt các đương sự là phù hợp theo khoản 1, 3 Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự.

[2]. Về quan hệ hôn nhân: Căn cứ các tài liệu, chứng cứ có tại hồ sơ vụ án thì hôn nhân của nguyên đơn và bị đơn hoàn toàn hợp pháp, các bên đương sự đều thừa nhận cuộc sống vợ chồng có mâu thuẩn, tính tình không hòa hợp nên hay cải vã nhau, hiện vợ chồng đã sống ly thân hơn một năm nay, nguyên đơn cho rằng tình cảm không còn nhưng nguyện vọng bị đơn được đoàn tụ.

Theo nguyện vọng đoàn tụ của bị đơn, Tòa án đã tổ chức hòa giải lần 2 để các đương sự níu kéo tình cảm và mở phiên tòa để xem xét yêu cầu của các bên đương sự nhưng bị đơn đều vắng mặt không có lý do dù đã nhận được thông báo hợp lệ của Tòa án, việc vắng mặt theo thông báo cho thấy bị đơn không còn quan tâm đến quan hệ vợ chồng.

Hội đồng xét xử nhận thấy, tình trạng hôn nhân mâu thuẫn đã trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được nên chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn và cần áp dụng khoản 1 Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình xử cho chị Trương Thị Ly N được ly hôn với anh Nguyễn Đình Th.

[3]. Về con chung: Tuy các đương sự đều có nguyện vọng nuôi con chung không yêu cầu cấp dưỡng, nhưng HĐXX cần giao con chung cho nguyên đơn nuôi dưỡng là phù hợp, bởi lẽ hơn một năm vợ chồng sống ly thân con chung do nguyên đơn trực tiếp nuôi (các đương sự thừa nhận), con chung được chăm lo, phát triển bình thường, nguyên đơn là cán bộ hợp đồng không thời hạn có lương thu nhập ổn định, có thời gian chăm sóc con chung trong khi bị đơn là lao động tự do, thường xuyên vắng mặt tại địa phương (các nội dung trên được xác minh tại BL từ số 39 - 43 hồ sơ vụ án). Tuy có yêu cầu nuôi con nhưng bị đơn từ bỏ quyền tham gia tố tụng, vi phạm nghĩa vụ cung cấp tài liệu, chứng cứ để bảo vệ yêu cầu, nguyện vọng của mình về việc nuôi con chung. Vì vậy, Hội đồng xét xử giao con chung của vợ chồng là Nguyễn Đình B – sinh ngày 04/4/2015 cho nguyên đơn nuôi dưỡng là phù hợp.

[4]. Về tài sản và nợ chung: Các đương sự không yêu cầu, HĐXX miễn xét.

[5]. Về án phí và quyền kháng cáo: Nguyên đơn phải chịu án phí ly hôn theo quy định của pháp luật. Các đương sự được quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, Điều 48, khoản 4 Điều 147, khoản 1, 3 Điều 228, Điều 238, Điều 271, khoản 1 Điều 273, khoản 1 Điều 280 của Bộ luật tố tụng dân sự;

Căn cứ khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 56, Điều 57, 58, 81, 82, 83, 84 của Luật hôn nhân và gia đình;

Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 3, khoản 1 Điều 6, điểm a khoản 1 Điều 24, điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, Nghị quyết Quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

[1]. Về quan hệ hôn nhân: Xử cho chị Trương Thị Ly N được ly hôn với anh Nguyễn Đình Th.

[2]. Về con chung: Giao con chung Nguyễn Đình B – sinh ngày 04/4/2015 cho chị Trương Thị Ly N nuôi dưỡng đến tuổi trưởng thành (18 tuổi). Anh Nguyễn Đình Th không phải cấp dưỡng tiền nuôi con chung và được quyền thăm nom con chung không ai được phép cản trở.

[3]. Về án phí: Chị Trương Thị Ly N phải nộp 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) án phí ly hôn nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí ly hôn đã nộp là 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) theo biên lai số 0007507 ngày 23/02/2021 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh.

[4]. Các đương sự vắng mặt được quyền kháng cáo lên Tòa án cấp trên trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

334
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp hôn nhân gia đình số 65/2021/HNGĐ-ST

Số hiệu:65/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Nghi Xuân - Hà Tĩnh
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 09/07/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về